-
Nuôi Cá Cảnh Thuận Phong Thuỷ Ắt Thành Công
-
Bí Kíp Giúp Cá Betta (Lia Thia, Xiêm) Sống Lâu Hơn
-
Trại Cá Betta Nghĩa Hiền: Bán Cá Xiêm Betta Thái Cao Cấp Sỉ / Lẽ 302267
-
5 Bệnh Phổ Biến Ở Cá Betta Và Cách Chữa
-
Cây Hồng Xiêm – Cách Trồng Và Chăm Sóc Cây Hồng Xiêm
Thú chơi cá “thia-thia”
Thia-thia đá bóng trong keo,
Ham vui trước mặt, quên nghèo sau lưng.
Ao sâu cá lội khoe màu,
Đố ai biết mỗ: bã trầu, thia-thia?
V.H.S
Thua thì thua mẹ thua cha,
Cá sinh một lứa, ai mà thua ai!
(Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, Huỳnh Tịnh Của)
CÁ THIA-THIA. Chuyện địa phương, chỗ nhau rún nói ra họa may không ai nói gì, chớ tôi rất sợ các ông làm tàn, giỏi nghề ngồi không moi móc.
– Bạn nhỏ đá cá chơi, không ăn tiền, cũng không có tiền mà ăn, – cốt tranh nhau giữa nhóm “hỷ mũi chưa sạch”: con cá mày dở vì hớt tại đồng “mấy thằng đánh giặc thua”, không như con cá tao hay lắm, vì gốc nó ở trên Hòa-Hưng, còn phảng phất vong hồn “tụi đánh giặc chống Tây” đời trước!
– Bọn già thì bất chấp điển tích, họ nghĩ rẻ rề: lấy đó làm nghề sanh nhai, “chạy gạo”, kiếm tiền nhậu nhẹt, hút xách, chơi bời… Đối với họ, mùa hạn, thì chơi gà. Mùa ướt, gà đổ lông, thì day qua đá cá: có thế thôi. Chừng nào cá cũ, thì bắt qua mùa gà. Trái đất cứ xây, người dân Việt quê, chỉ biết gà gà, cá cá…
Hồi còn mài đũng quần trường tỉnh xứ Sốc-trăng yêu nhớ, một trang một lứa nay còn sống sót ở đất Sài-gòn, đếm số còn thua số răng trên hai hàm lão già bảy chục, (không kể răng do các bác-sĩ nha-y trồng, nhìn không ra), lúc thiếu thời ấy, chúng tôi không gì thích bằng ngày lễ nghỉ xả hơi hay ngày chúa nhựt, sau khi bày vở đâu êm vào đó:
Rồ-lem (problème) làm rồi, con-bò-té-sông-răng-ke (composition française) vừa làm rồi; chia quẹt-bờ (verbe): rồi mà chưa, để sáng coi lại còn dư chán: anh-đi-xúc-tép-về-rang (indicatif présent) chưa mà rồi, vì dễ ợt, mai sáng chép vô tập còn kịp; bài học thuộc lòng, cũng nhớ làu làu, ngặt nỗi đọc lên như kéc mẹ chớ nhiều câu không hiểu nghĩa, nhưng dám chắc trong lớp cũng bí-lù như mình, tóm lại “đâu êm vào đó”, chừng ấy chúng tôi bèn rủ nhau, mỗi đứa cụ bị một rổ con hay một mủng trẹt, kèm thêm một chai nhỏ, thứ chai dầu thơm “Cô Ba” của mẹ hay chị đựng dầu dừa hay giấm chua, sẽ lén lấy, mượn đỡ hay ăn cắp cũng vậy, đem súc sạch và chứa sẵn nửa phần nước trong, đồ nghề đại khái rổ và chai cặp nách sẵn sàng thì hè nhau kéo ra đồng ruộng chia tay hớt cá.
Không phải bất cứ đồng nào cũng có cá hay.
Phải rành đôi chút mới chắc ăn kiểu “ba bó một giạ”.
Chung quanh thành phố Sốc-trăng, năm ấy (lối 1914 – 1915) tôi biết có:
1) Đồng Lọ-Nghẹ, ở phía sau trại lính Ma-tà. Gần đám ruộng nầy có nhà thợ rèn ở nhiều, than bụi tro lò đổ xuống nước ruộng, lâu ngày nước đen ngòm: thia-thia đồng nầy có màu đen đúa chắc da chắc thịt như con cháu tướng Uất-Trì đời Đường, vảy da như trui, thoét trong lò nấu đồng thổi sắt, nên đinh ninh cá đồng nầy “mình đồng gan sắt”, răng cứng như thép khóa chắc trong hàm như trong họng kềm: cá đồng nầy không chạy mặt cá đồng nào! Thảm nỗi, đồng ở gần trại lính Ma-tà, mà con cháu Ma-tà dữ quá, hễ chúng nó gặp bọn tôi lén hớt cá đồng Lọ-Nghẹ thì bọn nó đánh chúng tôi chạy bò lê bò càng, không biết đường về.
2) Đồng hàng tràm, gọi cá chùa Phật, vì nơi đây có chùa thờ đức Di-Đà. Nhờ lá tràm tích-đọng lâu năm, nhuộm nước đỏ au, – lá tràm vả chăng là vị thuốc đón gió ngừa phong, – nên cá vùng nầy mình như tẩm thuốc, bắt được con nào bỏ vô chai, ít giờ sau quen nước quen cái, cá phùng mang sậm màu, vảy xanh ửng hồng, đuôi đỏ chớp sao, chăm bẳm như các tổ-sư Bồ-Đề, hay nói cách khác, như thầy bùa, thầy ngải giỏi nghề “gồng chém không đứt” hay có học “xầng-tả”, xìn tả (thần đả). Năm xưa, nơi đây tôi hớt được một con “cá nái”, lớn bằng ngón tay út, lưu lại nhiều năm quá nên quá cỡ, không cáp độ gặp cá nào bằng nó, tôi để đá bóng chơi và đặt chiến danh là “Ngũ-Lang hòa-thượng”! để nhớ thành tích ông tướng “thầy chùa” trong tuồng “Mộc Quế-Anh dâng cây”. Con cá nái nầy, khi tôi hớt được, bỏ vào chai không lọt, phải gởi qua chai khác, đủ biết nó lớn con đến bực nào!
3) Một đồng khác là đồng Lình-kía (Long-tử cang), ở phía chùa Phật sau nhà máy Quách Xên. Tuy mang danh đẹp là “cá xóm Rồng con”, nhưng thia-thia đồng nầy không anh hùng chút nào, vì ở xóm chệc rẫy, bủng dứ vì quen tiêu thụ những đồ thừa của bọn nầy gởi trong đám ruộng bên nhà.
4) Một đồng khác nữa, rất xa xăm đối với cặp giò trẻ thơ của chúng tôi buổi đó, là đồng Bắc-Tà-Ky (tên thổ). Đây là ruộng phụ ấm của ông cậu họ Trần, nguyên con quan Đàng Cựu, xưa kia ngồi trấn xứ Ba-Thắc (srock Passac, tức Sốc-trăng). Cá vùng nầy nổi danh một thuở, bền gan không đâu có nhưng ít ai kiếm được lắm. Chủ ruộng là nhà đá cá lớn, dạy tá-điền canh chừng nghiêm mật, không ai hớt lén được. Đặc sắc trong vùng có thứ cá-kỳ-son, tức kỳ trên lưng có chấm một điển son, đây là giống cá xiêm lai biệt dạng của chủ ruộng đúc nắn lâu đời: cắn quạu, bền gan bực nhứt. Ông Trần, ông cậu của tôi, xưa có một con, ăn trọn mùa, không chạy độ nào, danh còn nhắc: “cá Triệu-Tử”.
5) Tệ nhứt là cá đồng Thầy Tám, trên đường đi Cần-thơ. Thầy Tám nguyên là pháp-sư, chuyên chữa bịnh bằng phù-chú. Thây ma chết chôn sau am, cá sanh vùng nầy lẹt đẹt không khác những con bịnh đau ma do thầy Tám chữa chạy: chưa đá chưa cắn ai một miếng nào, đã xếp đuôi xếp giáp, chạy cuốn cờ! Nguyên sở ruộng Thầy Tám là cuộc đất gò, nước cạn. Thảo nào cá thiếu nước không nơi dụng võ, ngắn hơi và nhát gan là lẽ cố nhiên. Tôi nói nước ít nên cá nhát gan, vì kinh nghiệm dạy rằng con cá ở nước sâu quen nín hơi, lâu lâu mới lên đớp bóng một lần, nhờ đó mà chịu đựng hay, bền hơn cá ở nước cạn.
6) Đồng lác, đồng cỏ năn, ở phía sau nhà thương tỉnh, dọc theo đường đi xuống Bang-Long (tục gọi quận Giếng Nước). Cá vùng nầy dở hơi, vì sanh trưởng trong lác, trong năn, trong cỏ, nên không có chi đặc sắc (thuở ấy chưa có anh hùng Rừng Sác, nước mặn). Tuy vậy đừng quen chê sớm mà lầm to có ngày, vì may thời Tổ đãi, hớt được cá kinh niên, thứ cá trốn ẩn lâu năm gần nhà xác, hình như còn oan hồn uổng tử vấn vương, hoặc nữa hớt được những cá lẻ loi sống chung lộn nhiều năm trong bộng trong hang rắn dữ, ngày ngày từng hớp nước có nọc con ác-xà phun ra, cá quen hơi rắn nên không hầy hấng, chực khi đụng độ với cá lạ đồng, thì khác nào con xà-niên ngậm ngải đối chọi với phàm phu, có thể nói bách chiến bách thắng. Tôi đã nói phải là có Tổ đãi mới bắt được thứ cá dữ nầy. Khoan vội tin lời tôi, ham thọc tay vào hang rắn, có ngày bỏ mạng!
Về việc nầy, tôi đã từng ngộ trận, một phen tởn tới già, nay nhắc lại nghe chơi mà còn rởn tóc gáy: Bữa ấy, trời mưa rỉ rả, tại đồng Hàng Tràm, mặt trời vừa xế bóng, tôi đặt rổ xuống nước, vừa lấy chơn giậm giậm xung quanh rổ rồi rút rổ lên, nghe như được một vật gì nặng nặng. Rổ lên vừa khỏi mặt nước. Mẹ cha ôi! Một con rắn hổ lên nước đen mun, nằm khoanh tròn chật rổ. Khỏi nói, tôi vừa thấy rắn, ba hồn bảy vía lên mây, lẹ như chớp, tôi quăng rổ té bật ngửa ra sau, không kể áo quần ướt vấy, mặt cắt không còn chút máu. Úy hà! Chút xíu nữa, không còn sống mà viết bài nầy! Quên nói, rắn ta cũng hoảng hồn hoảng vía (nếu thật rắn cũng có hồn), rắn đánh cái “tỏm”, buông mình xuống nước, phăn phăn lủi bụi trốn theo đường, rắn cút mất tự thuở nào!
Các anh em bạn theo tôi bữa đó đều chạy té đùn cục trong ruộng sình, báo hại thia-thia huyền bí đâu chẳng thấy, duy thấy một phen vỡ mật hú hồn.
Một lần khác cũng tại đồng Hàng Tràm nầy, tôi lại bị trâu dữ rượt, chạy bò càng, ve thúng quăng mất, may sao còn giữ được hồn. Con trâu nầy tôi nhớ rõ, sừng của nó, không biết vì sao không dựng quớt lên mà vẫn nằm lòng thòng hai bên đầu, có lẽ nếu nó húc cũng không hại gì lắm, nhưng nói giỏi, sao hồi đó không ở lại mà thử sức với nó! Tởn đi một dạo rồi chứng nào tật nấy, tôi cũng mon men ra đồng xúc cá, vì thuở ấy, thú thật, chúng tôi tiền bạc đến một đồng một chữ cũng chẳng có dính lưng, cho nên chỉ biết những thú vui không tốn tiền; mà theo tôi còn vui nào bằng ngày chúa nhựt đi hớt cá thia-thia, để được nhăm nhi củ kiệu chua nhai nghe giòn rụm, bây giờ nhắc lại còn chảy nước miếng!
Độ xưa, một nhà chơi cá ở chợ Sốc-trăng, có một con cá kỳ quặc, ông ta lượm nó ngoài đồng, ở sẵn trong một bình vôi sành mẻ miệng, bỏ gần bên gò mả loạn. Ông rinh luôn như vậy đem về nuôi, để y con cá ấy trong bình vôi của nó quen ở, trừ khi nào xách ra trường cáp độ, khi ấy ông mới vớt nó ra đọi ra thố đường hoàng. Con cá nầy có thể nói là lạ lắm, vì thắng không biết bao nhiêu độ, về sau không ai dám đem cá đối thủ với bất cứ cá nào của chủ nó, báo hại ông ta vì một con cá linh, thắng độ hoài, mà chủ không tiền hút! Tôi sau nầy, vì đi học trường lớn, cũng mất tích con cá ở bình vôi gò mả hoang nầy.
XÚC, BẮT, HỚT CÁ THIA-THIA
Muốn có được cá để chơi, phải có chút ít kinh nghiệm. Kinh nghiệm nầy không có trường nào chuyên môn dạy. Thuở đó, dẫu là con ông Thông đứng bàn ông Chánh, hay con Thầy ký Kho bạc, muốn có cá chơi, phải lén cha lén mẹ, phải lo lót xin thọ giáo với các tay rành nghề, mà không ai khác hơn là bọn bộ hạ dưới tay cha mẹ chúng, bọn trẻ chăn trâu giữ bò, cắt cỏ ngựa, mục-đồng, bọn ở đợ. Dạy không lấy tiền công tiền Tổ, cao thượng vậy thay. Duy phải chiều lòn, dẹp bỏ bộ tịch “cậu”, dày công tâng hót thì họ mới truyền nghề. Một trang một lứa với tôi năm đó có con ông Huyện Kim, con Thầy Thông Tây, toàn là tay “công-tử”, con các người có máu mặt đương thời. Trối kệ, phải xuống nước nhỏ, dẹp chức “Ấm” vào ngăn kéo, tôn họ làm “Sư”, làm “Mồ Tổ”, họ mới đoái hoài. Quên nữa, và phải trốn học, theo họ ra ngoài đồng ruộng, đổi với họ một khúc bánh mì thì họ cho leo lưng bò cỡi thử một chặp, hoặc dâng cho họ “đồng xu mẹ cho để dành ăn bánh”, thì họ cho phép lội xuống ruộng sình, bước lỏm bỏm theo họ mà hớt cá thia-thia hay là bắt ốc! Trốn trường cũng vì muốn biết cỡi bò, bỏ lớp, hoang phế việc học hành, cũng vì ba con cá xanh-xanh đỏ-đỏ! Thầy dạy chúng tôi hớt cá là anh Tỷ-Bò. Anh chăn bò, “giữ bò” từ lên sáu. Cứ mỗi sáng, cho ăn ba miếng cơm nguội no nê, chú đày tớ già bồng Tỷ đặt trên lưng bò, đèo thêm chai nước mưa, và mo cơm vắt…. Ra đồng, trọn ngày hết ngồi đến nằm, Tỷ ở trên lưng thú, nắng mưa phú có cao xanh thương xót, một cái nón rách, một chiếc áo tơi, – con nhà nghèo có ông Trời nuôi, – Tỷ mạnh lành, da đỏ sậm có cần gì hứng gió Long-Hải, tắm nắng Vũng-Tàu? Chiều lùa bò về, chú tớ già ẵm Tỷ xuống cho Tỷ xã hơi, cơm nước, ngủ nghê, ngày ngày y một kiểu như thế cho đến tuổi Tỷ lên xuống lưng bò mình ên được. Mà cái tuổi ấy không xa, mới ngộ chưa, vì cỡi bò được ít lâu, Tỷ đã dạy được con bò cầm bầy tên là “Cành-Tết”, biết nằm xuống, mỗi khi Tỷ cần dùng không muốn ở mãi trên lưng nó: bò nằm rồi, Tỷ bắn lùi như tôm, đít đi trước, chân đụng đất bình yên vô sự, nào cần ai bồng ẵm? Khi lên, Tỷ dạy “Cành-Tết” nằm nữa, Tỷ trèo, – có khó hơn khi xuống một tý, – trèo như kiểu thằn-lằn ôm cột đình, nhưng rồi cũng trèo lên lưng bò được, chớ không sao! Tỷ giấu nhẹm chú tớ già việc nầy, để hưởng tận cảnh: “cực thì có cực, nhưng khổ thì không khổ”. Ai ở đợ ra sao không biết chớ Tỷ không bao giờ bị chủ rầy la, một bầu trời nước bao la, mặc sức nghêu ngao hò hát! Sạm da vì nắng, săn thịt vì mưa, không hề sổ mũi gió máy bậy bạ, không bao giờ biết nhức đầu là gì, lên mười tuổi, Tỷ vỗ ngực xưng “Chúa tể Đồng Trường Đua”, “ngô chánh thị Tỷ-Bò thị giả!!!”
Không chuyện gì xảy ra ngoài đồng ruộng mà Tỷ-Bò không thạo: gò nào có rùa vàng, rùa nấp ở; hễ thấy dấu cỏ dấu đất ra làm sao là Tỷ biết có con vật ẩn núp dưới bụi đế hay gốc lức, v.v… Vì vậy mà Tỷ-Bò mỗi ngày mỗi lục lạo, lục còn hơn học trò lớp nhứt khuấy rầy quyển tự-vị lúc dịch “version” Tây! Con rắn làm hang như thế nào, và con rắn ấy là loại rắn gì, Tỷ-Bò biết đủ. Tỷ-Bò quả quyết thuốc “không xa”, và thường thường có giống cỏ nào mọc gần miệng hang, thì cỏ ấy là món thuốc thần trừ nọc con độc-xà kia vậy. Tỷ-Bò cam đoan đêm nào trăng sáng là rắn ra trững mỡ, “giỡn trăng”, chầy ngày lăn lộn trững đùa trên đám cỏ, sao sao cũng chảy dãi, nhểu nước miếng thấm cọng cây lá cỏ, tẩm già chất độc, chất nầy nhờ gội sương chan nắng nhiều ngày mà dịu lần, biến nên môn “thuốc ngừa” (kiểu nầy y như kiểu thuốc ngừa do viện Pasteur bào chế!). Tỷ-Bò dốt mà sao nghiệm được việc nầy, lạ thật! Mai sau người nào nếu bị rắn cắn, cứ nhớ tìm hang nó và bứt một mớ cỏ mọc nơi miệng hang, lớp đem về nấu nước uống, lớp nhai cấp kỳ nuốt nước và lấy xác đắp lên chỗ bị cắn, là có cơ thoát khỏi nạn nghèo! (Tỷ-Bò chúc ngôn).
Nghe làm vậy thì hay làm vậy, chớ tôi chưa dám truyền-bá, đem phương nầy bày vẽ cho ai thí nghiệm bao giờ. Nay viết ra đây cũng không bảo-kê hiệu quả. Tóm lại, chồn đèn, chuột đồng, kỳ-đà, rắn mối, rùa vàng, cá bộng, các con sinh vật ở ruộng, nhứt cử nhứt động là Tỷ-Bò hay biết từ đường đi nước bước. Sau nầy, mặc dầu tôi đỗ bằng Trung-học, “lên mặt” trở về làng, nhưng đối với môn vạn-vật-học và môn địa-dư tỉnh nhà, tôi vẫn như thuở còn bé thơ, thua anh Tỷ-Bò xa lắc! Miền Nam, từ cửa “Vàm Tấn” (Đại-Ngãi) cho đến sông Ông Đốc (Cà-Mau), không một khúc quanh nào mà Tỷ-Bò không biết tên, không một xẻo-co nào mà Tỷ-Bò chưa từng đặt chơn đến đó. Giờ nào nước lớn, nước ròng, nước đứng, Tỷ-Bò thuộc nằm lòng. (Nhờ vậy mà muốn đi đây đi đó, Tỷ-Bò không cần chèo chống. Một lá buồm rách, một cơn gió thuận, một chuyến nước xuôi, Tỷ-Bò thả ghe vô ruộng. Công việc xong xả, Tỷ-Bò chờ con nước, thả ghe về nhà, không tốn công chèo, còn hay hơn đời nay, sắm máy thế chèo mà có khi máy trục trặc, đã tốn tiền thêm mất công linh chờ đợi). (Không nói đến cái nạn mọi việc đều máy móc thay thế, sau nầy tầm vóc, bắp thịt đàn bà Việt sẽ kém thua bây giờ vì còn thể-thao chèo bơi gì nữa đâu?) Nói quá xa đề, nhắc lại đối với Tỷ-Bò, tuy vô học, nhưng con thú nào kêu la làm sao…, chỗ nào đào xuống là bắt được rắn hổ, chỗ nào đốt cỏ già hơi là có rùa mập bò ra, v.v…, tắt lại, địa-lý, địa-dư vùng đồng Ba-Thắc (Sốc-trăng), Tỷ-Bò xem rẻ như thò tay vào túi lấy đồ.
Hôm nào chúng tôi được theo sau lưng Tỷ-Bò ra đồng, thì hả hê bữa ấy: không cháo rùa cũng rắn xào, lươn um, hoặc cá lóc mập ú bó đất sét nướng trui vào lửa rơm, ăn nội cái “filet” chấm muối hột, “nóng hổi, vừa thổi vừa ăn”, đến nay còn thèm. Chúng tôi hùn tiền sắm gần đủ nồi ơ, chảo, đũa, gởi kỹ miễu “Ông Tà”, đũa rất ít dùng; vì chúng tôi kinh nghiệm ăn “bốc tay” sướng và ngon nhất! Chúng tôi không mê Tỷ-Bò không được! Tỷ-Bò rất khác tôi. Tôi thì, học toi cơm, học thuộc tên tổng tên làng làu như cháo lỏng, đọc như kéc mẹ, tên thảo mộc, tên chất khoáng hay ngũ kim, tôi kể giòn hơn lặt rau rang bắp, thế mà nếu ai hỏi vặn: làng ấy ở đâu, chất ấy biến thể ra gì, tôi sẽ ú ớ như đứa câm ăn ớt: học mà không hành, tôi kém Tỷ-Bò hằng mấy dặm! Biết mà thiếu kinh nghiệm, ra trường đời, tôi chỉ là thằng hủ nho Tây đại chi vô dụng!!!
Anh Tỷ-Bò dạy tôi phương pháp hớt cá lia thia.
Anh dặn: “Khi để chơn xuống ruộng sâu, thì phải nhớ không còn là con cưng của cha mẹ tại nhà nữa. Muốn nhỏng nhẻo thì ở nhà. Đến đây, phải biết hòa mình cùng Trời Đất: tập bước cho khéo chân, cá không giựt mình, mới có mà bắt. Lựa gốc rạ, dốc lức mục, giẵm cẳng lên đó thì khỏi sợ sa lầy khỏi uống nước bùn. Dẫu đỉa trâu lớn bằng ngón cái nó đeo bắp vế non, và dẫu đỉa hẹ đỉa mén mỏng như lá lúa bò lúc nhúc, lòng thòng trên bắp chuối, thì trối kệ nó! Dẫu vắt rừng cắn, máu ra ướt đỏ chân, háng, thì cắn răng để vậy! Tập chịu, thét rồi quen! Đó là thường sự! Muốn làm dân ruộng thì phải tập cho quen lần: tập cắn răng nín khóc, đau thế mấy cũng không được la! Rên la không ích gì, và chỉ làm bối rối người lớn, thêm làm cho cá tôm hoảng chui trốn mất, mà lỡ cơ hội tốt. Tập lâu ngày thì hết sợ; rồi thét đi sẽ dạn lần, sẽ thấy vui thú. Cần nhất là miễn sao đừng để đỉa con, vắt mén chui vào hậu môn, vào lỗ chỗ nhược, thì thầy chợ cũng khoanh tay mà Tỷ-Bò cũng vô phương tiếp cứu! Học bao nhiêu đó trước đã, rồi Tỷ sẽ dạy thêm”. Tôi nhớ lại hồi nhỏ, nhỏng nhẻo với mẹ có tiếng, mẹ vừa lấy cán chổi lông gà phủi sơ sơ ngoài quần, chưa chi đã la còn hơn bị ong bầu đút đít! Bây giờ mãi mê ba con cá thia-thia xanh-xanh đỏ-đỏ, anh Tỷ-Bò “phán” ra câu nào là dạ răng rắc, xem còn hơn câu kinh nhật tụng, tuân theo răm rắp, không dám cãi nửa lời! (Nay mẹ đã mất, cha cũng đã mất, con nhớ lại ăn năn không nghe cha mẹ bằng nghe Tỷ-Bò).
Tỷ-Bò dạy tôi phải cho có gan, thì tôi làm gan! Tỷ-Bò dạy tôi bậm môi thì tôi cắn môi đến giập máu! Anh dạy tôi túm, vo ống quần cho sát bẹn sát háng, tôi làm coi cũng gọn bâng; bây giờ tôi viết bài nầy, nhớ lại việc cách trên năm mươi năm, tôi mới hiểu và thương mẹ tôi, mỗi lần lấy áo quần ra giặt, đăm-đăm muốn biết sao “đứa con ăn cá, mẹ lừa xương” y-phục lại bèo-nhèo đến thế! (Mẹ! Mẹ ôi! giá-thử con cũng nghe huấn-từ của cha mẹ bằng như con đã nghe lời anh Tỷ-Bò!)
Tâm trí của tôi lúc đi hớt cá, không lo đỉa chun hậu môn, – thú thật tuổi ấy tôi cũng chưa biết đó là một tai nạn lớn và sẽ làm khổ cho cha mẹ đến bực nào, – tâm trí tôi mảng lo và chăm chú ngó theo bờ mẫu, ngó dài mặt nước bọc theo lức, đế, ô-rô, rau dừa. Chỗ nào có bọt nổi trắng-trắng hay vàng-vàng (trắng khi nào ruộng toàn nước mưa, vàng khi nào nước có lộn chất phèn chất sắt do dưới đất hoà lên, hay có lá mục…): bọt ấy là bọt cá thia-thia, rõ đích-thị hắn đây rồi! Con mắt thông thạo của Tỷ-Bò, dòm thoáng qua là biết ngay, không do dự môt giây một khắc! Đối với tôi thì cóc cần, bọt gì cũng mặc! Khi ấy hãy đưa rổ vào cho lẹ, vừa đẩy rổ tới trước vừa thọc sâu xuống và cũng vừa hứng lần lên, ba việc: đưa đẩy, thọc sâu, hứng lên, phải làm nhanh lẹ vén khéo, cùng khi ấy hai chơn lại phải giậm-giậm thật đều, thật kỹ giáp vòng chỗ mình đang đứng, cốt làm sao cho con cá, dẫu muốn thoát thân ra bụi bậm thì cũng vì “địa-võng” của mình bố trí quá khít khao, và nhờ sự “tấn công ba mặt” của mình quá chặt chẽ, đành vô phương thối bộ và đành rút lui về bọt, mặc tình bắt tha! Mỗi lần nâng rổ lên, nếu khéo tay và thông thạo thì gặp bọt chín mười lần, làm sao cũng phải hớt được vài ba con cá.
Cá giãy lách chách trong lòng rổ mà lòng mình cũng rung lên thình thịch, còn sung sướng hơn đánh bài tứ-sắc “tới quan”! Nhưng cũng khoan vội mừng sớm và hãy đợi cho cá lọt vào chai đem theo, xem đi xem lại kỹ càng rồi sẽ mừng không vội. Nếu hắn là con cá trống thì mặc sức mừng vui! Bất ngờ hớt trúng con cá thia-thia mái, thì nên phóng sanh phứt cho rảnh nợ đời, hoặc giả bắt được thứ cá sọc dưa, cá bã-trầu thì mừng hụt một phen và cũng nên mở nút chai trút ngược cá xuống ruộng mà làm doan làm phước cho nó nhờ! Để thì giờ xúc con cá khác còn hay hơn!
Cá bã-trầu, mình dẹp, vảy xanh lè, coi tốt mã ghê, thoáng qua tưởng mình thộp được con cá xiêm, mừng quýnh, không dè đó là thứ cá bã-trầu, đồ vô dụng, được nhiều kho mẻ tô thì đã tanh thêm xương nhiều thịt ít, ăn không ngon, bằng để nuôi chơi trong chai trong keo, thì chỉ phá đám, tốn công nuôi, cá bã-trầu trững giỡn cũng không biết đừng nói chi đá độ: bã-trầu chỉ giỏi tài nuốt cung quăng, vì kính trọng Ba tôi lắm, nên chuyền tay đem về Sốc-trăng, Ba tôi quí hơn vàng: con cá nầy nước lội xem đủ oai, thêm miệng quai xách, mắt thụt (không sợ cá khắc cắn nhằm), vảy đều đều óng ánh như lửa sáng, kỳ trên thật nhọn như cây bút lông chấm son dựng đứng, kỳ dưới đỏ chói khi xếp như lá cờ lịnh, khi xoè tươi như cờ hiệu nhà Vương!
Thằn-lằn quen mửng cũ, tôi giết đã nhiều, thế mà hắn còn đây, hay thật! (Chuyến nầy chết m. mày rồi!) Thằn-lằn quen mửng cũ, thấy nắp keo đậy không kín thì ăn quen, mon men toan độn nhập vào trong, định bề bắt cá tươi “xực” (thực) như kỳ trước! Tôi ngồi chỗ bộ ván, thấy con thằn-lằn ngán giùm cho cá, nó vóc to và mập, trắng đỏ như “thằng Lê-dương” năm ấy: có lẽ sức mạnh nó không vừa: nếu khoẻ như “lính đầu đỏ” và tinh anh có thừa, thì chu cha, ghê quá, không biết con xiêm bự của mình làm lại nó không? Khi ấy, tôi ngưng làm bài học, và định trong trí sẽ can thiệp cứu cá cho kịp thời. Thằn-lằn, vốn tánh dè dặt sẵn, (ba mươi đời quân gian thường kỹ càng, nên càng thêm lợi hại), thằn-lằn làm như “Lê-Huê khán trận”, ngó trước xem sau, (hát ba câu Nam rồi!) thì bò lần đút đầu vào miệng keo, không khác hùm dữ vào chuồng trâu…
Đàng nầy tôi ngồi mà nôn quýnh, không dám nhúc nhích cục kịch, gần như nín thở, hờm sẵn chờ dịp sẽ tiếp cứu và ám trợ con cá câng.
Thằn-lằn bò nhẹ nhẹ như tên du-kích lành nghề, mắt lườm lườm ngó riết con cá đang ở dưới đáy keo, thong thả xê xích từ phân từ ly, rình xem nhứt cử nhứt động của con vật sắp làm mồi ngon cho mình. Tôi nín thở, phập phồng lo sợ cho cá. Bỗng thằn-lằn quay đầu trở lên, lú chót mũi khỏi miệng keo, bốn chân hít cứng vào cổ keo thủ thế như thầy nghề võ, cặp mắt ngoáy trở xuống liếc theo từng mỗi hành động con thủy vật. Nắm được thế thủ vững chắc rồi, thằn-lằn bèn ra miếng độc. Nó thò đuôi rà mặt nước, lay động nhẹ nhẹ giả như chót đuôi là con quăng đang trở mình biến hình con muỗi, hoặc như con ruồi sa cơ vừa té xuống nước, đang giãy tử, chi vậy? – Xin thưa: ấy là kế dụ địch của thằn-lằn, để nhử thia-thia hờ cơ sẽ ra tay. Nếu khi ấy thia-thia không khéo đề phòng, trồi lên đớp nước, hoặc ơ hờ hoặc vô tình tưởng chừng chót đuôi kia là quăng, là muỗi, trân mình định táp, khi cá vừa tằm đòn thì thằn-lằn, lẹ như chớp, sẽ phóng mình xuống mặt nước và dùng đầu làm củ chuỳ đập mạnh vào đầu cá. Người có biệt tài, khéo ở chỗ đúc mà khi cáp cá, người ta không biết cá mình là cá lai, hoặc thấy “lai phảng phất” chút ít, kể như cá hồ, nên chịu độ, đến khi thả vô keo đá mới thấy lai rõ rệt, mà phép “thả cá vô keo” rồi thì kể chịu độ, phải để đá đến ăn thua, chớ không bắt ra được. Phép đúc cá, phải làm sao cho người ta biết cá mình không phải cá lai xiêm, thì mới dễ kiếm độ; chớ ở trường, khi cáp cá ngoài thố nhỏ, khi thấy cá lai rõ rệt thì ít ai khứng đá với mình, cũng có khi họ thấy lai mà dám đá là khi nào họ từng thấy trong bầy cá lai của người đó đã đá trước một hai con mà không dữ, hình thể cá đã xấu hoặc hư rồi, hoặc “cá lai non” nên họ không sợ. Cũng vì lầm tưởng như vậy, nên đã có người “tương kế tựu kế”, đúc và nuôi đến hai bầy: khác nhau ở chỗ mẹ cha khác giống, nhưng giống nhau ở chỗ cùng màu, cùng sắc, để dễ gạt lớp người thực thà, tuần nầy họ đem cá dở ra đá, rồi tuần sau họ mang cá hay đến gỡ độ, đá lớn hơn, những ai quá tham không kịp xét nét, sẽ thua họ mà không ngờ đã lầm kế độc “ly miêu hoán chúa”!
Phàm cá cũng như gà, “gan ruột” giống mẹ. Muốn đổ, phải lựa chọn cá mái cho thật dữ, nghĩa là mái lựa mái xiêm rặc hoặc lai một hai đời tuỳ ý, nhưng “cá trống” phần nhiều lựa “trống Rạch” (Rạch-Giá), “trống cỏ”, “trống hồ” đã từng ăn độ “anh hùng”, và lựa từ nết đá, nét chịu đòn, đến hình thể, v.v… Các tay chơi chưa lão luyện, ai ai lúc đổ cá, cũng ham cá sau nầy sẽ giỏi chịu đòn, cắn dữ, biết đánh “đòn hồi-mã-thương”, biết “chơi cú-đờ-tết”, tức biết quày mình dùng đầu đánh trái lại đầu con cá kia chưa đề phòng, biết đòn “câu nước hàm trên”, “câu nước hàm dưới”, tức cắn ngay hàm (trên hay dưới) của con cá nọ, ngậm chắc và trì xác con nọ xuống tận đáy, vừa lấy thế đó mà nghỉ mệt, xả hơi, vừa thi tài “giỏi nín hơi”, con nào không quen, không đủ sức chịu đựng, nín hơi lâu không nổi, sẽ giựt hàm chịu thua và chạy luôn có cờ! Nhưng những nhà lão luyện, kinh nghiệm có thừa, lại thích đúc cá thật bén, cắn dữ bội phần, để con cá kia bị cắn, bị đòn, rát quá thì chạy ngay; chớ những miếng “hồi-mã-thương”, “đâu hàm”, “bỏ chạy dụ địch” đều có chút phần nguy hiểm vì trong khi “chạy dụ địch” nếu có một bóng lạ, một tiếng động thình lình, cá chạy luôn cũng chưa biết chừng, nguy hiểm là vì vậy, nên họ không thích lắm.
Khỏi nói, về cá mái, cá để giống luôn luôn là cá lựa “gắt củ kiệu”, không chỗ chê, và trứng phải thật già. Trứng chưa già, ép ra thì cá non hao nhiều, mớ nào sống cũng không bền, không khác người ta đẻ thiếu tháng. Trong lúc mái còn non trứng, phải để cặp bên cá trống, mỗi ngày, cho ăn đầy đủ và mỗi bữa cho đá bóng cho cá sung sức, trứng mau già. Khi nào thấy con mái lội, đầu chìm xuống, khúc đuôi chổng vổng lên, bụng no tròn, ở hai bên hông “sọc dưa” vàng đen rõ rệt và một trứng lòi ra dưới bụng, ấy là trứng đã già, cá đã đúng lứa ép, không nên để lâu nữa. Trứng già mà không cho trống ép thì con mái cũng chết. Đây chỉ là một mánh khóe nhỏ, còn ngón gian trong trường cá không sao tả xiết, người thức thời và biết khôn, duy đừng mó tay vào nghề chơi cá và đá cá mới khỏi bị thua trí thua tiền.
THỂ LỆ ĐÁ CÁ
Theo phép chơi cá, tuy không có trường dạy luật lệ, nhưng theo thói quen thành tục, lấy đó làm chuẩn thằng, thì chịu đá hay không là khi nào cá của mình còn ngoài thố cáp, chưa thả vào “keo trường”. Cá còn ngoài thố, thì mình là chủ cá, có trọn quyền chạy, không đá, hay là ưng thuận, cho hai con đá nhau. Một khi cá thả vô “keo trường” thì như ván đóng đinh, phải để cho hai con đá đến ăn thua, chớ không bên nào được bắt cá ra, dẫu bên đối phương cá là cá lai “rặt” hay “lai mấy đời” cũng phải cắn răng mà chịu. Vì vậy khi cáp cá, phải cẩn thận từ ly từ phân, phải luyện cặp mắt biết “cá lai”, “cá Rạch” từ trong thố, chớ đừng đợi thả cá vô keo, kêu Trời vô ích!
Điều lệ khác cần biết là khi thả cá vô keo, khởi sự ăn thua là khi nào hai con đều cắn nhau “miếng vay miếng trả”, mỗi con cắn một miếng là bắt đầu “thành độ”. Nếu thả vô keo, hai con phùng xòe, con A cắn con B, B chưa cắn miếng nào, thoạt A bỏ chạy, thì độ cá kể “huề”, vì B chưa cắn, chưa thành độ.
Đây là thể lệ chánh, ở đâu cũng vậy, còn những chi tiết nhỏ nhặt khác thì sẵn chủ trường vừa là “cố vấn” vừa là quan Toà, sẽ giải quyết tuỳ sự thông cảm của đôi bên. Một điều nên nói nữa là chủ trường, ở tại trường cá, lịnh và quyền, lớn hơn ông Cò tại Bót Cảnh-sát; và ở trường cá không có luật “chống án”!
MỘT ĐỘ CÁ ĐIỂN HÌNH
Lúc nãy, tôi có nói về những mánh khóe gian lận của bọn đá cá chạy gạo, chuyên gạt lớp, phỉnh phờ, đến em cháu cũng không buông tha. Nói thì nói vậy, chớ thỉnh thoảng ông Tổ nghề đá cá cũng sửa lưng đồ đệ một cách bất ngờ cho chúng nó bớt khinh lờn oai Tổ! Lối năm 1938, tôi còn tùng sự tại tỉnh nhà Sốc-trăng để dễ bề thần tỉnh mộ khan. Ở xứ đá cá nên tật cũ khó chừa, chúa nhựt nào cũng có mặt tôi tại trường, mà trường cá vốn không xa lạ, vì chủ là anh Nguyễn Trinh-T., mặc dầu nay gương vỡ, chớ chức “anh vợ trước” không mất! Một buổi gần trưa chúa nhựt, tôi xách nả tre có đựng mươi cái thố sành, mỗi thố là một con cá chiến. Từ sáng sớm họ đã đá xong vài ba độ, trường đang nóng tiết, kẻ ăn cười người thua, luồng điện bắt đầu muốn xẹt lửa. Chú Bảy Minh đem cá từ Bãi-Xàu qua cáp độ. Khiến cá tôi gặp cá chú. Lúc còn trong thố, rõ ràng cá tôi lấn cá chú, một mười một tám. Đôi bên bằng lòng ưng đá, tiền độ là năm chục bạc, phần tôi “bao” phân nửa, hai mươi lăm đồng, còn lại chia kẻ năm người ba cho vui. Bên chú Bảy, chú bao sổ, chú muốn “ăn một mình trọn gói”, không cho bọn thua từ sớm “ké vào chút ít” gọi là gỡ gạc vớt vát ít nhiều.
Bởi họ thiện nghệ nên họ khôn hơn mình! Lúc nãy, cá còn trong thố, họ dùng lông gà nhận chìm con cá họ xuống sát đáy, lại thêm lấy lông gà quét túm vi kỳ con cá, nên mình thấy nhỏ xíu! Bây giờ được thả vào keo rộng, cá nở nang bành trướng đúng sức nên to gấp hai ban nãy! Thôi rồi! cái thua nắm chắc về phần mình rồi! Tôi ngồi đó mà chỉ trông mau dứt độ để về nhà sớm sớm, tránh những cặp mắt ngạo nghễ của bọn hàng sáo khó chịu. Chú Bảy, không nói gì, chỉ rung rung mấy sợi râu mép “kiểu Char-lot”, thầm hân hoan nhưng còn ngại, nếu cười ra mặt e tôi đổ quạu không chung tiền thì uổng lắm! Nhóm bàng quan nãy giờ thấy cá chú Bảy “kể ăn chắc” nên phóng bắt om xòm. Ban đầu còn kiêng dè, họ phóng mười đồng ăn bảy. Về sau bất kể, họ quăng ăn năm, ăn tư, nghe mà thêm tức giận. Riêng tôi, tôi ói gan, nhưng đã bước vào nghề, phải học chữ “nhẫn”, nên cắn răng mà chịu. Duy, nói chí đáng, mấy người đá theo phe tôi, một là nóng ruột sắp mất tiền oan uổng, hai là thấy tôi mắc mớp nên bên vực, bọn đồng sổ chưởi thề liền miệng, nào “đá không ngay thật”, nào “ăn gian sẽ thua mạt có ngày”!
Trong keo, hai con cá đã “trao đổi găng tay”, cắn nhau mỗi con một miếng cắn: thế là bắt đầu ăn thua thực sự. Cá của tôi vẫn quạt đuôi, phùng xoè, lo lội, lo tìm chỗ nhược mà hạ thủ. Cũng trong lúc ấy, ngờ đâu cá chú Bảy lại không lo nghinh chiến; để liến thoắng, đảo bên nầy rồi đảo bên kia, lội tung tăng theo cá tôi, hết lội sau rồi bọc ra trước mặt, giương kỳ, xòe đuôi, khoe mã, giáp. Bỗng lẹ như chớp nhoáng: con cá của tôi, thừa lúc cá chú Bảy uốn mình trước mặt khoe bộ vảy óng ánh như sao, nó bỗng phóng hết mình tới trước, cắn một miếng thật mạnh vào bụng bở, mạnh cho đến đỗi bọt nước văng tung tóe và nghe rõ ràng một tiếng “bóc” rung rinh mặt nước hồi lâu. Rồi một sự bất ngờ diễn ra mau như điện chớp. Cá chú Bảy bị một vố đau quá, giựt mình chạy khan, xếp đuôi cuốn giáp, hát bài “tẩu mã” luôn, không còn gan dạ nào trở đầu nghinh chiến! Mà có gì lạ đâu: chẳng qua từ khi thả chung vào keo, cá chú Bảy thấy cá tôi sặt rằn, trên mình có vằn có vện, lầm tưởng đó là “cá mái” nên sẵn lòng trổ ngón ba mươi lăm! Bất thần nay bị cắn mạnh “như trời đánh, búa bổ” bèn kinh tâm tán đởm, ù chạy luôn, quên chuyện đấu tranh!
Từ bại trước mắt, chuyển ra thắng một cách bất ngờ, tôi thò vợt múc cá ra, chìa tay lãnh hai mươi lăm đồng bạc ngon lành, trong khi chú Bảy, bây giờ mới nhìn bà con, lằm bằm: “Đồng tiền của ông cháu lớn quá! Tự hậu, tôi không dám đương đầu với ông nữa! Ai coi! cá tôi lớn mười, đá với cá ông không bằng phân nửa của nó; tiền kể như bỏ túi, tội gì cá lớn trổ tật, trững mái làm chi hại tôi thua vô cớ vô căn! Hoặc tôi hết thời nên Tổ trác? Hoặc ông cháu có thần tài giữ của chi đây? Thật báo tôi quá, và tự hậu tôi không đá với ông nữa đâu!”
Thật vậy! Chú Bảy từ ấy không hề cáp đá với tôi, mà tôi cũng giải nghệ từ đây vì biết rõ trong trường đấu kê đá cá, ngu ngơ như tôi làm vầy mà không sớm rút lui thì chỉ đưa đầu gối cho chúng đột !
CÓ MẤY THỨ CÁ ĐỂ NUÔI CHƠI?
Nay xin kể theo chỗ tôi biết, một vài thứ cá thường thấy:
1) Cá thia-thia cỏ, ao, hồ: tuỳ tên đồng nội, tên địa phương mà gọi, như tại Sốc-trăng, có cá đồng Lọ-Nghẹ, đồng Hàng Tràm, giồng Lình-kía (Long-tử cang), v.v…
2) Cá nước, cá Rạch (ở Rạch Giá, rừng U Minh). – Như đã nói, cá loại nầy hay lắm, răng bén, cắn dữ, giỏi chịu đòn, không chạy bậy, trừ phi “hết mùa cá xuống nước”. Xiêm lai lơ mơ cũng cự không lại nó. Người đi hớt cam go, lội rừng mấy ngày ròng rã, cá trốn trong bọng dừa nước, chung với rắn, đỉa, trong bưng biền có tiếng là đầy cọp, sấu, thú dữ… Ngày xưa cá đồng hạng tốt, bán một hai cắc bạc mỗi con, thì cá Rạch, gặp mùa hút và cho xổ thử thấy tài trước mắt thì ba đồng bạc mỗi con cá tốt, cũng có người dám mua. Cá nước duy bất tiện một điều là dễ nhìn ra, và chỉ cáp độ với cá nước khác chỗ hớt, còn cá cỏ, cá đồng, không ai dám đá với loại cá nước, cá Rạch nầy.
3) Cá xiêm rặt, gọi “cá xiêm thiệt” chia ra cá có kỳ và đuôi đỏ lòm, “cá xiêm đỏ”: bền nhưng ít bén; “cá xiêm xanh” thì kỳ và đuôi xanh lè xanh lét, cắn dữ, mạnh, lẹ, nhưng ít bền; “cá xiêm đen” vảy đen huyền, như cục xiên xáo, vừa đẹp, vừa hay, nhưng ít thấy bán; “cá sáp” mình trắng, để chưng chơi, không ai nuôi đá, đủ biết tài nghệ tầm thường nên không ai chuộng.
4) Cá xiêm lai một đời, còn dữ như thứ thiệt. Thấy dễ biết, vì càng lai thì thân mình con cá càng dài đòn thêm.
5) Cá xiêm lai biệt dạng, riêng gọi “cá đúc”; người sành nghề dòm qua dễ biết vì cá ta, đuôi, kỳ màu không sáng như cá lai.
Năm giống cá vừa kể là cá thia-thia đá độ. Đặc biệt nhứt là cá xiêm của các ông hoàng chơi riêng trong hoàng cung. Người dân thường làm gì có được? Cái con tôi nói trong chuyện “thia-thia đại chiến thằn-lằn” vì cỡ lớn quá, không gặp độ nên cũng không biết tài hắn. Lại nữa, lão thủy thủ tặng cho Ba tôi, nói làm vậy, mà đủ tin chăng? Nước Xiêm, nước Cam-Bốt là hai nước tu theo đạo Phật, cấm sát sanh. Thế mà người Xiêm và người Cơ-me thích chơi cá hơn ai hết. Thậm chí, thầy sãi thấy đá cá cũng dừng chơn đứng xem! Có người phàn nàn: “Ông đã tu-hành, sao lại ưa xem sát-phạt? E trái với lòng từ-bi của phật-tử chăng?”
Trả lời: “Việc tu-hành là khác. Đây là hai con cá nó đá lộn. Tự nó cắn nhau thì tôi coi! Tôi có xúi giục bao giờ mà tội với lỗi ???”.
Ngoài các giống cá “võ-sĩ”, biết trống mái thư hùng, biết cắn xé giết hại nhau, tranh đấu giữa đồng loại làm trò chơi cho thế gian vui mắt, lại có thứ cá “văn-sĩ”, y mão lượt bượt, xúng xính trong những bộ áo “may trừ hao” nên rộng xùng xình thấy dễ tức cười, tôi muốn nói những cá nuôi trong bể cạn, trong bồn thuỷ-tinh để làm kiểng chưng chơi. Ấy là:
a) Cá phướn (poisson de paradis) lội dựng đứng đầu trở lên trên, đuôi ở dưới, nên đặt cá bút chì là vì vậy.
c) Cá giống chiếc là khô (Monochire)…
e) Cá Taxotes Jaculatores, tức cá sọc dưa, mình giống cá chim, có sọc đen sọc trắng, trông rất đẹp. Người Tàu có tánh hiếu kỳ tuỳ theo màu sắc đặt tên khá ngộ: “Hắc thần-tiên”(hắc xành-xính), Mỹ-châu Bạch thần-tiên (Pạc xành-xính),v.v…
g) Cá Barbus de Suatra, có hai dải dưới dài giáp đuôi.
i) Cá Rasbora, sọc dưa sặt rằn theo chiều dài như pyjama màu xanh vàng.
k) Cá Tétra Déon toàn đen.
m) Cá Girardinus Guppy, mình xám, mắt và cạnh đuôi điểm đỏ.
o) Cá mình trong ngần dòm thấu xương
2) Giống cá vàng y như cá Ông Thọ, nhưng cá nầy có kỳ trên. Thường lội dưới nước tha thướt như công-tử hát bội du xuân! Kim-ngư mắt lồi như mắt cá thòi-lòi là quí nhứt, danh gọi “Đôn-nhãn”.
3) Một thứ Kim-ngư khác, mắt lồi thêm lật ngửa dòm trời, vì đó tên đặt “long-nhãn ngưỡng thiên”.
4) Cũng Kim-ngư, nhưng mắt như có bọc nước, lại gọi cá “thuỷ-bao-nhãn”.
5) Kim-ngư tuyền đen là “hắc mẫu-đơn”.
6) Cá tuyền trắng, lớn lên vảy chớp như bạc; còn kỳ đuôi cũng trắng phếu, thêm dài lê thê, trông đẹp như “bạch-tỵ công-tử” trong tuồng Tàu hay anh chàng văn-sĩ bạch y bạch mạo.
7) Kim-ngư nửa vàng nửa trắng là cá dính-dướng.
8) Kim-ngư nuôi lâu năm, đầu có mọc chóp mao, lúc lội vừa đớp nước vừa phun ra bọt tròn tròn, người Trung-Hoa đặt tên là “sư-tử hý cầu” để câu khách sộp, bán không dưới đôi ba trăm bạc. Đủ cặp giá còn mắc hơn nữa! Nhưng mua về, cá già mau mệt, và khó nuôi. Không vậy người bán cá dưỡng làm chi thứ “sử-tử hý cầu” mỗi lần ăn lăng-quăng còn hơn xe Huê-kỳ hoặc như voi uống nước!
Trừ những thia-thia nuôi để đá, phải cho ăn lăng-quăng tẩy sạch chất dơ và đếm từ con một, – có độ lượng thì cá không hư sớm, ngoài ra nuôi Kim-ngư và những cá để chưng chơi thì có thể cho ăn thêm với lăng-quăng, chút ít rau cải, như rau muống tươi để nguyên lá, xà lách, ruột bánh mì, bột cho cá ăn, và lăng-quăng hóa-học, đỏ đỏ, bé ly-ty Hoạ sĩ Hoàng Xuân Lợi không biết hình dạng của cá thia thia nên đã vẽ chúng với cái đuôi dài thậm thượt như giống cá Xiêm đuôi dài nuôi làm cảnh phổ biến vào thời đó (mà ngày nay gọi là loại “đuôi voan” tức veiltail). Đuôi cá lia thia đồng ngắn và nhỏ như đuôi cá đá Xiêm.
Theo tài liệu của người Thái Lan thì các trò đá cá, đá gà là các trò chơi dân dã ở nông thôn. Cá đá được nông dân Thái thuần dưỡng và tuyển chọn qua nhiều thế hệ vì vậy mà những con đá hay nhất thuộc về những nhà lai tạo. Không thấy đề cập đến việc chơi cá đá trong tầng lớp quí tộc ở Thái. Có lẽ người thủy thủ nói quá lên cho con cá thêm phần giá trị.
Ban đầu, thể loại đá cá lia thia được người ta ưa chuộng bởi vì cá lia thia đá không bền, các trận đấu thường kết thúc rất chóng vánh vì vậy mà làm được nhiều “độ”. Sau người ta tìm cách lai cá lia thia với cá xiêm sao cho bề ngoài càng giống cá lia thia càng tốt (“lai biệt dạng”) nhưng lại đá bền như cá xiêm. Cá này mà đem đá với cá cá lia thia thực sự là nắm chắc phần thắng. Đây là trò lừa đảo tinh vi vì phải lai tạo, nuôi dưỡng và tuyển chọn cá một cách công phu. Một khi ai cũng biết trò này thì việc lai tạo có thể đi đến hai kết cục. Thứ nhất, ở Việt Nam ngày nay không ai đá độ thể loại này nữa (có lẽ vì việc “lai biệt dạng” quá công phu), họ chuyển sang đá cá xiêm để khỏi bị ai lừa. Thứ hai, mọi người chấp nhận đá cá lai một cách công khai như ở miền Đông Bắc Thái Lan ngày nay.
Nghe nói có người còn luyện cho cá quen với nước muối rồi khi đá thì dụ cho người ta đá trong lọ của mình hay đổ nước từ lọ cá của mình vào lọ đá chung. Cá đối phương không quen với nước muối sẽ bị “xót mình”, mau bỏ chạy. Cách nữa là để đầu rắn độc thúi có giòi, rồi bắt giòi cho cá lia thia của mình ăn ít một cho quen lần. Cá ăn lâu ngày thì răng có ngấm chất độc nhưng nó không sao vì đã quen rồi. Đến khi đem đá mà cắn trúng cá của đối thủ một hồi là con kia giãy chết liền. Cách sau này tuy độc địa nhưng e rằng dễ bị phát hiện.
Nannostomes là chi cá bút chì Nannostomus.
Theo Dthong, Tel Matherina Ladigesi có lẽ là cách viết sai của loài Telmatherina ladigesi (tên chính thức hiện nay là Marosatherina ladigesi) còn gọi là cá cầu vồng Indonesia (Celebes rainbowfish), gọi vậy để phân biệt với cá cầu vồng châu Úc. Loài nầy thuộc về một họ cá rất lạ là Telmatherinidae. Ở đây, cụ Vương đã nhầm lẫn khi gọi chúng là macropode, bởi vì macropode chính là cá lia thia hay cá cờ như đã nói ở trên.
Scalaire tức Pterophyllum scalare, cá ông tiên nước ngọt. Điều ngạc nhiên là cách viết sai (thừa một chữ “i”) cũng khá phổ biến trên mạng.
Trichogaster là chi cá sặc, ở Việt Nam có ba loài là sặc bướm (Trichogaster trichpoterus), sặc rằn (Trichogaster pectoralis) và sặc điệp (Trichogaster microlepis). Nếu là cá nội địa thì có lẽ Vương tiên sinh đã nhận ra vì hồi nhỏ ông từng đi bắt cá ngoài đồng. Vậy theo chúng tôi, có thể ông đề cập đến các loài ngoại nhập như sặc trân châu (Trichogaster leeri), sặc mật (Trichogaster cheni) hay cá cẩm thạch (và một biến thể khác có màu vàng) vốn là loài cá sặc bướm thuần dưỡng.
Danio rario là cá ngựa vằn, xuất xứ từ Ấn Độ.
Mollinésie đoán chừng là Molly, là những loài thuộc chi Poecilia, tức cá bảy màu hay cá khổng tước. Một số cá thể có màu vàng-cam tươi và vây dựng lên như cánh buồm được gọi là khổng tước có diềm hay hoàng kim (sailfin molly). Nếu là loại màu đen tuyền như tác giả mô tả thì chính là cá hắc kim (để phân biệt với hồng kim). Các loài nầy thường bị lai tạp.
Hemi Grammus có lẽ là cách viết sai của Hemigrammus cũng là một chi cá tetra mà thôi, không rõ Vương tiên sinh nói đến loài nào.
Cá mà hình thù cá chim, vọc ngũ sắc, mặt vằn vện và rất đắt tiền (vào thời đó) thì có thể là… cá đĩa.
Đoán chừng là con bo-bo (hay trứng nước, hồng trần cũng là nó).
--- Bài cũ hơn ---
-
Cách Phân Biệt Dòng Cá Betta Halfmoon
-
Tượng Cá Xiêm Bằng Gỗ Hương Việt – T99
-
Bí Quyết Nuôi Cá Lia Thia Đá (Chọi Chiến, Xiêm Đá) Vô Địch – Kỳ 3
-
Cá Betta (Lia Thia, Xiêm) Ăn Gì Và Các Loại Thức Ăn Cho Cá Betta
-
Cá Betta Ăn Gì? Những Loại Thức Ăn Cho Cá Betta (Xiêm, Chọi, Lia Thia) Khoẻ Mạnh, Lên Màu Đẹp