Kĩ Thuật Nuôi Cá Tra Và Cá Basa Trong Bè: Giống Và Chọn Giống

--- Bài mới hơn ---

  • Cung Cấp Chả Cá Basa Giá Sỉ Dùng Trong Các Quán Ăn Và Nhà Hàng
  • Kỹ Thuật Sản Xuất Giống Nhân Tạo Cá Basa
  • Phân Loại, Phân Bố Và Hình Dáng Của Cá Tra Và Cá Basa
  • Hướng Dẫn Chế Biến Cá Ngừ Hấp Cuốn Bánh Tráng
  • Cách Làm Cá Saba Hấp Cuốn Bánh Tráng Ngon Mê Ly
  • Giống cá tra và basa nuôi hiện nay có 2 nguồn: Vớt trong tự nhiên và sinh sản nhân tạo. Chúng ta đã chủ động trong sản xuất cá tra, cá basa đang từng bước hoàn thiện và nâng cao sản lượng cá nhân tạo.

    1. Đặc điểm sinh học của cá tra và basa:

    Cá tra ( Pangasianodon hypophthalmus) và basa ( Pangasius bocourti) là 2 loài cá bản địa của Việt Nam và một số nước lân cận (Lào, Campuchia và Thái Lan). Cá basa là loài được nuôi truyền thống trong bè trên sông Mêkông của Việt Nam và Campuchia trong khi đó cá tra được nuôi nhiều trong ao cầu ở đồng bằng Nam bộ Việt Nam trước đây

    Cá tra có cơ quan hô hấp phụ nên có thể sống được ở những ao hồ chật hẹp, thiếu oxy, nên nuôi được mật độ rất cao.

    Cá basa chỉ sống chủ yếu ở sông nước chảy và được nuôi trong bè, chịu đựng điều kiện chật hẹp, thiếu oxy kém hơn cá tra.

    Cả 2 loài đều có tính ăn tạp thiên về động vật, thích ăn mồi có nguồn gốc động vật và cũng dễ dàng chuyển đổi loại thức ăn. Trong vòng đời của cá, giai đoạn cá bột hết noãn hoàng thì thích ăn mồi tươi sống, ăn các loài động vật phù du có kích thước vừa cỡ miệng. Thậm chí cá tra bột còn ăn thịt lẫn nhau trong bể ương nuôi. Khi phân tích thức ăn trong ruột của cá đánh bắt ngoài tự nhiên, thành phần thức ăn được tìm thấy như sau:

    Cá tra: Nhuyễn thể: 35,4%; Cá: 31,8% ; Côn trùng: 18,2% ; Thực vật thượng đẳng: 10,7%

    Cá basa: Mùn bã 63,1%; Rễ thực vật 21,1%; Giáp xác 14%; Trái cây 12,1%; Côn trùng 6,7%; Nhuyễn thể 5,4%; Cá 4,5%

    Khi nuôi trong ao, cá tra có khả năng thích nghi với nhiều loại thức như mùn bã hữu cơ, cám, rau, động vật đáy, thức ăn hỗn hợp và rất thích phân cầu. Cá basa cũng dễ dàng sử dụng các loại thức ăn khác nhau như hỗn hợp tấm, cám, rau và cá vụn (nấu chín) nên thích hợp cho nuôi dưỡng trong bè.

    Trong tự nhiên, cá tra có thể sống trên 20 năm, cỡ cá lớn nhất đã gặp dài 1,8m. Nuôi trong ao một năm đạt 1-1,5kg/con.

    Cá basa cũng có tốc độ lớn khá nhanh, sau một năm nuôi lớn được 0,7 – 1,3kg/con. Nuôi trong bè sau 2 năm đạt tới 2,5kg/con. Trong tự nhiên đã gặp cỡ cá dài 0,5m

    Trong tự nhiên, tuổi thành thục của cá tra từ 3-4 năm, cá basa từ 4-5 năm. Vào mùa thành thục (từ tháng tư trở đi) cá có tập tính bơi ngược dòng di cư tìm đến các bãi đẻ, nơi có điều kiện sinh thái phù hợp cho sự phát triển của tuyến sinh dục và đẻ trứng. Vì vậy cá không đẻ tự nhiên ở phần sông Mêkông của Việt Nam. Bãi đẻ của cá nằm ở khu vực từ địa phận tỉnh Cratie của Campuchia trở lên. Tại đây có thể bắt được những cá bố mẹ 15kg với buồng trứng đã thành thục. Tại bãi đẻ, cá bố mẹ đẻ trứng thụ tinh tự nhiên, trứng dính vào cây cỏ thủy sinh ven bờ. Sau khi nở, cá bột trôi theo dòng nước về hạ lưu đến các vùng ngập nước ở Campuchia và xuôi theo sông Mêkông về phía Việt Nam.

    Tại vùng biên giới giáp Campuchia và Việt Nam, ngư dân có truyền thống vớt cá tra bột bằng các dụng cụ gọi là “đáy”. Hàng trăm triệu bột cá tra (kể cả cá thuộc họ cá tra) và các loài cá khác được vớt lên. Nhưng để thu chỉ cá tra bột, ngư dân đã ép lọc loại bỏ những loài cá khác, do đó đã giết một số lượng lớn gấp hàng chục lần số lượng cá tra bột. Hình thức này đã làm thiệt hại nghiêm trọng đến nguồn lợi cá tự nhiên trên sông. Hiện nay, chúng ta đã chủ động nuôi vỗ cá bố mẹ và cho đẻ nhân tạo, ương nuôi cá giống cá tra, nên đã hạn chế được nghề vớt cá bột trên sông. Cá basa cũng đã chủ động được một phần.

    2. Kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá tra và basa

    Cá bố mẹ chọn nuôi vỗ phải khỏe mạnh, có độ tuổi 3 tuổi trở lên (nặng 2,5-3kg). Nơi nuôi cá bố mẹ: có thể trong ao đất hoặc trong bè:

    – Trong ao đất: diện tích ao ít nhất 500 mét vuông trở lên (cá tra) và 1500 mét vuông (cá basa), độ sâu từ 1,2-1,5m. Nguồn nước cấp cho ao phải sạch và chủ động cấp thoát. Ao nuôi phải được thay nước thường xuyên, có thể lợi dụng thủy triều hàng ngày để thay nước cho ao.

    – Nuôi trong bè: Bè đặt trên sông nước chảy để thuận lợi cho sự thành thục của cá bố mẹ. Mật độ thả nuôi: Trong ao: 2kg/10 mét vuông (cá tra), 0,5 – 1kg/10 mét vuông (basa) Trong bè: 1kg trên mét khối (cá tra), 0,5 kg trên mét khối (basa) Có thể nuôi chung đực cái trong ao hoặc bè, tỷ lệ đực/cái là 0,7-1/1

    2.2. Mùa vụ nuôi vỗ và thức ăn cho bố mẹ:

    Mùa vụ nuôi vỗ bắt đầu từ tháng 9 – 10 hàng năm, thức ăn phải có hàm lượng đạm 30% (cá tra) và 35% (basa) trở lên. Có thể sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương để chế biến thức ăn hỗn hợp cho cá bố mẹ. Các loại nguyên liệu chính là cá tạp tươi, cá khô, bột cá, ruốc, bột đậu nành, cám gạo, tấm, bột bắp, bánh dầu, rau xanh, bí, cơm, dừa v.v… Cần phối chế hợp lý các thành phần để đảm bảo đủ hàm lượng đạm trong thức ăn. Nếu hỗn hợp thức ăn là nguyên liệu cá tươi thì khẩu phần ăn cho cá 4-6% trọng lượng thân cá/ngày. Nếu là thức ăn công nghiệp dạng khô (viên) thì 1-2% mỗi ngày. Mỗi ngày cho cá ăn 1-2 lần. Thức ăn hỗn hợp chế biến cho cá bố mẹ trong bè phải có độ dẻo và dính để giảm bớt sự tan rã trong nước làm lãng phí thức ăn. Trong ao có thể để thức ăn trong sàn (nong, nia) treo cách đáy 0,2 – 0,3m.

    2.3.1 Chọn cá bố mẹ

    – Chọn cá đã nuôi vỗ thành thục có buồng trứng phát triển ở giai đoạn bốn (IV), ngoại hình cá cái bụng to, mềm, lỗ sinh dục hồng, các hạt trứng đều, màu vàng nhạt hoặc trắng nhạt, đường kính đa số 1mm trở lên (cá tra) và 1,8mm trở lên (cá basa). Cá đực có tinh dịch tốt, trắng và đặc. 2.3.2 Sử dụng kích dục tố: Các loại kích dục tố đang sử dụng phổ biến hiện nay là HCG (Human chorionic gonadotropin), LHRH a (Lutenizing hormone Releasing hormone) và não thùy thể cá (chép, mè, trê, tra …)

    Kích dục tố có thể dùng đơn hoặc kết hợp nhiều loại (cho liều tiêm quyết định). Dùng phương pháp tiêm nhiều lần sơ bộ (1-4 lần) và 1 lần quyết định cho cá cái, cá đực thì tiêm 1 lần cùng với liều quyết định của cá cái.

    Đối với HCG: Tiêm sơ bộ 300-1000 UI/kg cá cái Tiêm quyết định 2500-3000UI/kg cá cái Não thùy thể cá phối hợp HCG:

    Liều sơ bộ: 0,2 – 0,3mg não thùy/kg cá cái

    Liều quyết định: 1500-2000 UI (HCG) + 3 -5mg não thùy

    Hoặc 70 – 100microgam LHRHa +3 -5mg não thùy/kg cá cái

    Cá đực chỉ tiêm 1 lần với lượng dùng 1/4 – 1/3 so với liều quyết định của cá cái. Ngoài ra, tuỳ theo chất lượng và độ thành thục của trứng để điều chỉnh liều lượng và phối hợp chủng loại kích dục tố cho thích hợp. Điều này phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm và tay nghề của người kỹ thuật

    Thời gian hiệu ứng của kích dục tố sau liều tiêm quyết định từ 8-12 giờ. Khi cá rụng trứng, tiến hành vuốt trứng và thụ tinh nhân tạo. Có thể khử dính trứng (sau khi thụ tinh) bằng Tanin hoặc không cần khử dính, cho trứng dính trên các giá thể làm bằng lưới nylon. Ấp trứng trong bể ấp hoặc bình weise (vây)

    Ở nhiệt độ nước 28 – 30 độ C, cá bột sẽ nở sau 20 – 24 giờ (cá tra) và 28-33 giờ (basa). Cá tra sau khi nở 20 – 24 giờ, nhanh chóng chuyển cá xuống ao ương để tránh tình trạng cá ăn thịt lẫn nhau khi bắt đầu hết noãn hoàng. Đối với cá basa, nên chuyển cá bột hết noãn hoàng vào ương trong bể ximăng, cá bột basa không ăn thịt lẫn nhau như cá tra bột.

    2.3.3 Ương cá giống:

    Ao có diện tích tối thiểu 500 mét vuông trở lên, độ sâu nước 1 – 1,5m. Chuẩn bị ao theo quy trình chung ương nuôi các loài cá: tát cạn, diệt hết cá tạp, cá dữ, vét bớt bùn đáy, rải vôi bột (7-10kg/100 mét vuông đáy ao), phơi đáy 1-2 ngày, bón lót phân chuồng 10-15kg trên 100 mét vuông (phân gà, cút, heo …) hoặc 1-1,5kg (lân + urê) trên 100 mét vuông đáy ao. Sau đó đưa nước sâu 0,3 – 0,4m và thả giống trùng chỉ và trứng nước (Moina).

    Thả cá bột và tiếp tục đưa nước từ từ vào ao cho đến khi đạt yêu cầu. Mật độ thả 400-500 con trên mét vuông. Các khâu trên là nhằm đảm bảo được lượng thức ăn tự nhiên cho cá ngay sau khi cá bột xuống ao, hạn chế sự ăn thịt lẫn nhau của chúng.

    Sau khi thả bột, hàng ngày bổ sung tiếp tục thức ăn cho cá: cứ 10.000 cá bột dùng 200 gam đậu nành xay nhuyễn, nấu chín và 20 lòng đỏ hột vịt (luộc chín), trộn đều và rải đều khắp ao.

    Sau 10 ngày, tăng lượng thức ăn thêm 50% và cho ăn dậm trùng chỉ.

    Sau tuần lễ thứ 2 có thể cho ăn thức ăn chế biến bằng cá và ốc (phần thịt) xay nhuyễn trộn bột gòn.

    Sau 1 tháng, cho ăn cám + bột cá (tỷ lệ 1/1) hoặc cám + cá tươi (tỷ lệ 1/2), mỗi ngày cho ăn 3-4 lần, khẩu phần ăn 5-7% trọng lượng cá.

    Sau 3-4 tháng ương nuôi, cá đạt cỡ 12-15 con trên kg thì chuyển sang nuôi cá thịt. Đối với cá basa, ương cá bột trên bể ximăng với thức ăn là Moina hoặc ấu trùng Artemia, sau 1 tuần cung cấp bổ sung thêm trùng chỉ.

    Sau 2 tuần chuyển cá xuống ương trong ao đất hoặc san thưa ương trong bể. Thức ăn là Moina + trùng chỉ + thức ăn chế biến (cá tươi xay nhuyễn và cám) cho đến khi 2 tháng tuổi.

    Sau đó cá giống tiếp tục được ương nuôi trong bè cỡ nhỏ trong khoảng 4-5 tháng, khi cá đạt cỡ 10-15 con/ kg sẽ chuyển vào bè nuôi cá thịt. Đối với cá basa giống nhỏ thu gom từ tự nhiên, với cỡ cá 5-6g/con, sau khi mua hoặc đánh bắt về cần ương tiếp trong bè nhỏ 3-4 tháng cho đến khi đạt cỡ 80-100g/con mới đưa vào bè nuôi cá thịt.

    MỘT SỐ VẤN ĐỀ KỸ THUẬT CHỌN GIỐNG NUÔI 1. Phẩm chất giống

    Cá thả nuôi vào bè cần được tuyển chọn cẩn thận để đảm bảo phẩm chất và đàn cá tăng trưởng tốt trong quá trình nuôi:

    – Đàn cá phải khỏe mạnh, không có dấu hiệu bệnh tật, xây xát, loại bỏ những cá bị dị hình. Quan sát trong dụng cụ chứa cá giống thấy cá bơi lội nhanh nhẹn.

    – Quy cỡ cá phải đồng đều, tương đương nhau về kích thước.

    Tránh thả các loạt cá quá lớn lẫn với cá quá nhỏ dẫn đến tình trạng cá lớn tranh ăn với cá nhỏ, làm cho chênh lệch đàn cá nuôi.

    Trước khi thả cá xuống bè nuôi, phải tắm nước muối 8-10 phần ngàn để cá chóng lành các vết thương, đồng thời giết được các ký sinh trùng bám trên cơ thể cá. Khi thả cá vào bè, cần thả từ từ để cá làm quen với điều kiện mới. Tốt nhất là ngâm bao chứa cá giống trong nước bè 15-20 phút mới thả cá ra. Nếu vận chuyển bằng ghe đục thì dùng lưới mắt nhỏ không gút để kéo cá, thao tác nhẹ nhàng tránh cá bị xây xát.

    Hiện nay, cá giống cá tra đã gần như chủ động từ nguồn cá sinh sản nhân tạo, do đó có điều kiện để lựa chọn, kiểm tra và đáp ứng được yêu cầu, chất lượng cá nuôi. Nhưng cá basa giống vẫn còn phụ thuộc phần lớn vào nguồn giống tự nhiên, được đánh bắt, thu gom từ các nguồn khác nhau (từ các người câu, từ thương lái ở Campuchia về …) do đó số lượng, quy cỡ và chất lượng chưa thể chủ động được. Theo ước tính hàng năm nghề nuôi bè chỉ riêng các tỉnh An Giang và Đồng Tháp cần thả 15 triệu giống cá basa, trong đó 95% được chuyển trực tiếp từ Campuchia hoặc gần biên giới Campuchia về Việt Nam. Cỡ cá 60-100 gam được chuyển theo các bè đóng bằng tre, vừa là nơi giữ cá và nuôi dưỡng cá giống cho đến khi cá được bán hết cho các bè nuôi. Chỉ có một lượng nhỏ cá giống basa được đánh bắt trong nội địa (8)

    2. Mật độ thả nuôi

    Số cá thả nuôi cho một bè rất khác nhau, dao động từ 20.00 – 50.000 con cá giống/bè. Kết quả tổng kết (8) cho thấy ở bè cỡ nhỏ thả mật độ cao hơn so với bè cỡ lớn. Mật độ thả nuôi nói chung rất cao, trung bình 80 – 120 con trên mét khối (cá tra) và 90 – 150 con trên mét khối (cá basa). Cá cỡ nhỏ thì thả dày hơn cá lớn. Cỡ cá tra thả nuôi từ 60-80g/con, cá basa từ 80-100g/con.

    NXB Nông Nghiệp

    --- Bài cũ hơn ---

  • Ăn Cá Có Béo Không? 5 Cách Giảm Cân Bằng Cá Ko Lo Mập
  • Cá Basa File Sạch Mỡ, Hàng Tươi & Đông Lạnh Đóng Gói 1Kg.
  • Cung Cấp Sỉ Cá Basa Phi Lê Làm Chả, Hàng File Đông Simibock
  • Cá Basa Phi Lê, Cá Basa Đông Lạnh
  • Tất Tần Tật Về Chế Độ Ăn Eat Clean & 50 Thực Đơn Giảm Cân Thần Kỳ

Kỹ Thuật Sản Xuất Giống Nhân Tạo Cá Basa

--- Bài mới hơn ---

  • Phân Loại, Phân Bố Và Hình Dáng Của Cá Tra Và Cá Basa
  • Hướng Dẫn Chế Biến Cá Ngừ Hấp Cuốn Bánh Tráng
  • Cách Làm Cá Saba Hấp Cuốn Bánh Tráng Ngon Mê Ly
  • 5 Địa Chỉ Bán Cá Nục Cuốn Bánh Tráng Đà Nẵng Khiến Dân Sành Ăn Mê Mệt
  • Cách Làm Cá Basa Nướng Giấy Bạc Đúng Vị Đơn Giản Tại Nhà
  • Đầu tiên ta phải chọn cá bố mẹ có độ độ tuổi 3 tuổi trở lên, nặng từ 2,5-3kg, đảm bảo mỗi con đều phải khỏe mạnh, không bị xây xước hoặc bệnh tật.

    Địa điểm nuôi vỗ cá basa bố mẹ hợp lý nhất là:

    Chọn ao có diện tích ít nhất 1500 mét vuông, với độ sâu từ 1,2 đến 1,5 mét. Nguồn nước cấp cho ao nuôi phải sạch và chủ động cấp thoát nước. Ao nuôi cần được thay nước thường xuyên, bà con có thể nhanh trí lợi dụng thủy triều hàng ngày để thay nước cho ao.

    Mùa vụ nuôi vỗ cá basa bắt đầu từ tháng 9 – 10 hàng năm.

    Để nuôi cá basa thành công, thức ăn phải có hàm lượng đạm 35% trở lên. Hoặc có thể sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương để chế biến thức ăn hỗn hợp cho cá bố mẹ. Bằng việc sử dụng các loại nguyên liệu chính là: cá tạp tươi, cá khô, bột cá, bột bắp, bánh dầu, rau xanh, ruốc, bột đậu nành, cám gạo, tấm, bí, cơm, dừa… Kết hợp các thành phần theo tỷ lệ hợp lý để đảm bảo đủ hàm lượng đạm trong thức ăn.

    Nếu hỗn hợp thức ăn được chế biến từ nguyên liệu cá tươi thì khẩu phần ăn cho cá 4-6% trọng lượng thân cá/ngày. Còn sử dụng thức ăn công nghiệp dạng khô thì 1-2% mỗi ngày. Mỗi ngày cho cá basa ăn 1-2 lần. Thức ăn hỗn hợp chế biến cho cá yêu cầu có độ dẻo và dính để giảm bớt sự tan ra trong nước làm lãng phí thức ăn.

    Chọn cá basa đã nuôi vỗ có buồng trứng phát triển ở giai đoạn bốn. Quan sát và lựa chọn những con cá basa cái có ngoại hình gồm những đặc điểm sau: Bụng to, mềm, lỗ sinh dục hồng, các hạt trứng đều, màu vàng nhạt hoặc trắng nhạt, đường kính đa số 1,8 mm trở lên. Đối với cá đực thì tinh dịch tốt, trắng và đặc.

    Sử dụng kích dục tố như HCG (Human chorionic gonadotropin), LHRH a (Lutenizing hormone Releasing hormone), dùng phương pháp tiêm 1 đến 4 lần sơ bộ và 1 lần quyết định cho cá basa.

    Thời gian hiệu ứng của kích dục tố sau liều tiêm quyết định từ 8 đến12 giờ. Khi cá basa cái rụng trứng, tiến hành vuốt trứng và thụ tinh nhân tạo. Ấp trứng trong bình weise hoặc bể ấp.

    Ở nhiệt độ nước 28 – 30 độ C, sau 28-33 giờ, trứng cá basa sẽ nở. Sau khi nở, nên chuyển số cá hết noãn hoàng vào ương trong bể xi măng.

    Ao có diện tích tối thiểu 500 mét vuông trở lên với độ sâu nước 1 đến1,5m.

    Ao cần được tát cạn, diệt hết cá tạp, cá dữ, vét bớt bùn đáy, rải 7 đến 10kg vôi bột trên100 mét vuông đáy ao.

    Tiến hành phơi đáy ao 1 đến 2 ngày, sau đó bón lót phân chuồng 10 đến 15kg phân gà trên 100 mét vuông hoặc 1 đến 1,5kg lân + urê trên 100 mét vuông đáy ao. Cuối cùng, đổ lượng nước sâu từ 0,3 đến 0,4m và thả giống trùng chỉ và trứng nước.

    Mật độ thả cá basa phù hợp từ 400 đến 500 con trên mét vuông.

    Bổ sung thức ăn hàng ngày cho cá: Dùng 200g đậu nành xay nhuyễn, nấu chín và 20 lòng đỏ hột vịt (luộc chín), trộn đều và rải đều khắp ao cho 10000 cá bột.

    Sau 10 ngày, tăng lượng thêm 50% thức ăn và cho ăn dặm trùng chỉ.

    Sau tuần thứ 2 có thể cho ăn thức ăn chế biến bằng cá và phần thịt ốc xay nhuyễn trộn bột gòn.

    Sau 1 tháng, đã có thể cho cá basa ăn cám kết hợp bột cá (tỷ lệ 1/1) hoặc cám cùng cá tươi (tỷ lệ 1/2), mỗi ngày cho ăn 3 đến 4 lần, khẩu phần ăn 5 đến 7% trọng lượng cá.

    Sau 3 đến 4 tháng ương nuôi, chuyển sang nuôi cá thịt. Giai đoạn này, cá basa cần thức ăn là Moina hoặc ấu trùng Artemia, sau 1 tuần cung cấp bổ sung thêm trùng chỉ.

    Sau đó cá giống tiếp tục được ương nuôi trong bè cỡ nhỏ trong khoảng 4 đến 5 tháng, khi cá đạt cỡ 10 đến15 con/ kg sẽ chuyển vào bè nuôi cá thịt. Đối với cá basa giống nhỏ từ tự nhiên, với cỡ cá 5 đến 6g/con, sau khi mua hoặc đánh bắt về cần ương tiếp trong bè nhỏ 3 đến 4 tháng cho đến khi đạt cỡ 80 đến100g/con mới đưa vào bè nuôi cá thịt.

    --- Bài cũ hơn ---

  • Cung Cấp Chả Cá Basa Giá Sỉ Dùng Trong Các Quán Ăn Và Nhà Hàng
  • Kĩ Thuật Nuôi Cá Tra Và Cá Basa Trong Bè: Giống Và Chọn Giống
  • Ăn Cá Có Béo Không? 5 Cách Giảm Cân Bằng Cá Ko Lo Mập
  • Cá Basa File Sạch Mỡ, Hàng Tươi & Đông Lạnh Đóng Gói 1Kg.
  • Cung Cấp Sỉ Cá Basa Phi Lê Làm Chả, Hàng File Đông Simibock

Quy Trình Kỹ Thuật Sản Xuất Giống Cá Tra Và Cá Basa

--- Bài mới hơn ---

  • Bán Buôn Cá Basa Cắt Khúc, Bán Sỉ Cá Basa Cắt Khúc Đông Lạnh Giá Rẻ
  • Cá Basa, Basa Cắt Khúc, Bán Cá Basa Cắt Khúc Tại Hà Nội.
  • Cá Ba Sa Trong Tiếng Tiếng Anh
  • Errors Made In Google Translate In The Indonesian To English Translations Of News Item Texts
  • Bán Buôn Bán Lẻ Cá Basa Và Nhiều Loại Thủy Hải Sản Tại Hà Nội
  • Kỹ thuật sản xuất giống Cá Tra và Cá Basa

    1. Nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ

    1.1. Ao nuôi vỗ cá bố mẹ

    Ao nuôi cá nên chọn đào ở những nơi đất thịt và ít bị nhiễm phèn, nên gần nhà để tiện chăm sóc và bảo vệ. Ao nuôi vỗ cá tra có diện tích ít nhất 500 m2, ao nuôi vỗ cá ba sa bố mẹ nên có diện tích lớn hơn, phải từ 1000 m2 trở lên, độ sâu mực nước từ 1,5 – 3 m. Nhiệt độ nước ao thích hợp từ 26 – 30°C, pH thích hợp từ 7 – 8, hàm lượng oxy hòa tan từ 2mg/l trở lên.

    Nhìn chung ao càng rộng, thóang càng tạo không gian họat động thỏai mái cho cá. Ao rộng thì giữ được sự ổn định của các yếu tố môi trường nhất là những khi thời tiết thay đổi. Ao rộng và thóang sẽ dễ dàng tạo được sự đối lưu giữa các tầng nước và các khu vực trong ao, điều hòa lượng khí oxy hòa tan trong nước giúp cho cá sinh trưởng và phát triển thuận lợi, thành thục dễ dàng và chất lượng sản phẩm sinh dục tốt. Một số địa phương, nhiều hộ có ao nuôi vỗ cá tra bố mẹ với diện tích nhỏ hơn 500 m2, vì vậy các yếu tố thủy lý hoá trong ao biến đổi nhiều, dẫn đến tỷ lệ thành thục cũng như sức sinh sản của cá bố mẹ đều kém, chất lượng trứng và tinh dịch không tốt, tỷ lệ sống của cá bột thấp. Ðộ sâu của ao cũng phải hợp lý để tạo thêm không gian họat động cho cá. Ao sâu thường giữ được nhiệt độ ổn định hơn ao cạn . Nhưng ao qúa sâu cũng không tốt, vì ao sâu có ảnh hưởng tới chất lượng công trình, đồng thời lớp nước dưới đáy ao ít được trao đổi, chất lắng đọng nhiều, nhiệt độ thấp, lượng oxy hòa tan thấp nên không thuận lợi cho cá.

    Ao phải được xây dựng gần nguồn cấp nước, gần sông hoặc kênh mương để dễ dàng và chủ động lấy nước cho ao. Nguồn nước cấp cho ao phải chủ động, sạch, không bị ô nhiễm bởi nước thải sinh hoạt hay nước thải công nghiệp, hoá chất. Nước bị nhiễm chua phèn hoặc kiềm quá đều không tốt. Nước có chứa các kim lọai nặng thì dễ gây độc cho cá.

    Ðáy ao không nên có nhiều bùn, vì dễ làm ô nhiễm và gây bệnh cho cá. Nếu đáy ao cát, độ thẩm thấu lớn và dễ bị sạt lở, khó giữ được nước ao. Bờ ao phải chắc chắn, không để lỗ mọi rò rỉ, chiều cao bờ phải cao hơn mực nước cao nhất trong năm để đề phòng ngập vào mùa nước lũ. Mái bờ cần dốc thoai thoải 30-400 để tránh sạt lở. Ao phải có cống cấp và cống thoát để giữ mực nước ổn định cũng như cấp và tháo nước dễ dàng khi cần thiết. Ðáy ao phải bằng phẳng và hơi nghiêng về phía cống thóat với độ dốc khỏang 0,3 – 0,4%. Nên giữ mặt ao thoáng đãng, không để tán cây lớn che khuất mặt ao

    Trước khi thả cá bố mẹ để nuôi vỗ, phải tiến hành các công việc chuẩn bị và cải tạo lại ao: tát hoặc tháo cạn nước ao, bắt hết cá tạp, cá dữ, vét bớt bùn đáy ( chỉ nên để lớp bùn dày 20 – 25 cm ). Dọn sạch cỏ, chặt bớt các tán cây che khuất quanh bờ ao, đắp lại những chỗ sạt lở và hang hốc cua, rắn, ếch, chuột.Ðể diệt cá tạp và nhất là cá dữ trong ao, ta thường dùng rễ cây thuốc cá (Derris), cứ 1kg rễ cây thuốc cá dùng cho 100 m3 nước, ngâm nước 8 – 10 giờ rồi đập dập hoặc giã nát rồi vắt lấy nước và tạt đều khắp ao vào lúc trời nắng. Chất Rotenon có trong rễ cây thuốc cá sẽ diệt hết mọi cá tạp và cá dữ còn sót lại trong ao. Sau khi diệt tạp, dùng vôi bột rải đều đáy và mái bờ với lượng vôi từ 7 – 10 kg/100m2. Phơi nắng đáy ao 1 – 2 ngày và cho nước vào ao từ từ qua lưới chắn lọc, khi mực nước cao đạt yêu cầu thì tiến hành thả cá bố mẹ.

    1.2. Bè nuôi vỗ cá bố mẹ

    Cá bố mẹ sinh sản cũng được nuôi trong bè: Bè để nuôi cá bố mẹ cũng giống như bè nuôi cá thịt. Thực tế cho thấy khi nuôi cá bố mẹ trong bè thì tỷ lệ thành thục cũng như chất lượng sản phẩm sinh dục đều rất tốt. Bè đặt trên sông nước lưu thông, nhờ dòng nước chảy thường xuyên, cung cấp đầy đủ oxy và môi trường sạch, không bị ô nhiễm bởi các chất thải của cá, các yếu tố thủy lý hoá khác của nước sông ổn định nên rất thuận lợi cho đời sống và phát dục của cá.

    a- Cấu tạo bè nuôi cá

    Vật liệu đóng bè chủ yếu là các loại gỗ tốt, chịu nước và lâu mục như gỗ sao, vên vên, căm xe, chò. Hiện nay còn có loại bè bằng chất liệu mới như composite, inox, có nơi đang thử nghiệm dùng chất béton polystirène. Vật liệu phải đảm bảo yêu cầu dễ làm vệ sinh, dễ khử trùng và không gây nhiễm cho cá nuôi.

    Bè được đóng theo dạng khối hộp chữ nhật, gồm khung bè, mặt bè, hông bè, đầu bè, đáy bè, phần nổi và neo bè. Phần nổi (phao nâng bè) có thể làm bằng thùng phuy, thùng gỗ, hộp sắt, thùng nhựa, ống PVC. Kích thước bè phổ biến ở các tỉnh ÐBSCL là 6 x 3 x 3m hoặc 8 x 5 x 3m, độ sâu nước từ 2,5-3 m, thể tích trung bình một bè khoảng trên dưới 100m3 . Trên bè có thêm các công trình phục vụ sinh hoạt, sản xuất, nơi chế biến thức ăn, nhà kho, nơi nghỉ ngơi. Bè được cố định bằng neo ở 4 góc, dây neo được buộc vào trụ neo ở đáy hay bằng mỏ neo.

    b- Vị trí đặt bè

    Bè được đặt nổi và neo cố định tại một vị trí thuận lợi trên sông, gần bờ, dọc theo dòng nước chảy, nơi có dòng chảy thẳng và liên tục, cách bờ ít nhất 10m, lưu tốc 0,2-0,5m/giây, mức nước sông tương đối điều hoà. Mặt bè phải nổi cao hơn mực nước sông 0,3-0,5m, đáy bè cách đáy sông ít nhất 0,5 m vào lúc nước ròng. Nơi đặt bè không ảnh hưởng đến giao thông trên sông, chỉ được đặt ở những khúc sông có chiều rộng mặt sông lúc mực nước thấp nhất từ 70 m trở lên. Nước sông nơi đặt bè không bị ảnh hưởng trực tiếp nước phèn, mặn và không thay đổi đột ngột. Nguồn nước lưu thông sạch, không ô nhiễm, xa các cống nước thải. Tránh nơi luồng nước ngầm, bồi tụ, xói lở, nơi có nhiều rong cỏ, nơi dòng nước có quá nhiều phù sa. Ngoài ra cũng cần chú ý đến vị trí thuận tiện giao lưu, gần các trục lộ giao thông giúp cho vận chuyển thức ăn, đi lại dễ dành thuận lợi.

    Khi chọn vị trí đặt bè cũng phải xem xét và cân nhắc hợp lý các điều kiện trên để quyết định chính xác vì việc di chuyển bè rất khó khăn, tốn kém cũng như sẽ ảnh hưởng đến kết quả nuôi vỗ.

    Trước khi thả cá nuôi vỗ phải dọn vệ sinh bè, phun tẩy trùng bè bằng formol với nồng độ 30 ppm (ppm=mg/lít). Phải xem xét, kiểm tra và tu sửa bổ sung hoàn chỉnh tất cả các chi tiết của bè, thay các phần ván hư mục, lưới chắn .

    1.3. Lựa chọn cá bố mẹ nuôi vỗ

    Có thể chọn cá để nưôi làm cá hậu bị từ những đàn cá thịt nuôi trong ao hoặc trong bè. Ðàn hậu bị được nuôi đến năm thứ hai thì lựa những cá thể tốt nhất để làm đàn cá bố mẹ chính thức. Chọn những con khỏe mạnh, ngoại hình cân đối, hoàn chỉnh không bị dị hình, di tật, trọng lượng của cá tra và ba sa từ 3 – 4 kg, có độ tuổi từ 3 năm trở lên và nên lựa chọn đều nhau về quy cỡ. Những cá khỏe và thể trọng lớn sẽ thành thục tốt, hệ số thành thục và sức sinh sản cao (có nhiều trứng). Không nên chọn cá quá nhỏ để đưa vào nuôi vỗ, vì cá nhỏ sẽ có chất lượng sản phẩm sinh dục sẽ kém. Nên chọn những cá có nguồn gốc xa nhau, của nhiều đàn cá thịt ở các ao khác nhau nhằm tránh sự cận huyết, vì xảy ra cận huyết sẽ làm giảm sức sống của các thế hệ con cháu về sau, chúng sẽ chậm lớn, nhiều cá thể bị dị hình, sức đề kháng với bệnh tật kém.

    Mật độ nuôi vỗ cá bố mẹ như saụ: với cá tra nuôi vỗ trong ao nên thả 1 kg cá bố mẹ trong 5 m3 nước, cá ba sa thì 1 kg bố mẹ trong 10m3 nước. Nếu nuôi vỗ trong bè thì thả cá tra 5 -7 kg/m3, cá ba sa 3-4 kg/ m3. Có thể nuôi chung cá đực, cái trong một ao hoặc bè, tỷ lệ nuôi đực/cái là 1/1.

    Ðể theo dõi được chặt chẽ và chính xác từng cá thể, nên dùng biện pháp đánh số cho cá. Với cá tra và ba sa do có phần mặt trên xương sọ của đầu khá rộng nên có thể dùng que nhọn đầu để đánh dấu thứ tự cá bố mẹ lên đó. Dùng số La mã đánh số cho cá cái, số Ả rập cho cá đực. Mỗi lần kéo cá để kiểm tra sẽ ghi lại được tình trạng và mức độ phát dục theo đúng thứ tự từng con cá bố mẹ đã được đánh số. Sau đó cứ khoảng 2-3 tháng nên gạch lại số cũ để tránh tình trạng lẫn lộn do số bị mờ. Có thể dùng thẻ đeo số cho cá hoặc đánh dấu bằng thẻ từ nếu có điều kiện (vì dấu từ rất đắt, thường chỉ dùng cho việc đánh dấu trong nghiên cứu chọn giống). Khi cá đã thành thục và phân biệt rõ đực cái thì ta cắt luôn vây mỡ của cá đực, biện pháp này giúp cho nhận biết cá đực rất nhanh và chính xác. Vây mỡ của cá mọc lại rất chậm và có thể hai năm mới phải cắt lại một lần. Lúc này số đánh dấu trên đầu cá đực giúp cho biết tình trạng phát dục, như cá đã có tinh dịch hay chưa, có nhiều hay ít.

    1.4. Mùa vụ, thời gian nuôi vỗ và sinh sản

    Mỗi năm sau khi kết thúc mùa sinh sản nhân tạo, đàn cá bố mẹ được đưa vào nuôi hồi sức, sau đó phải được kiểm kê, đánh giá và chọn lọc để chuẩn bị nuôi vỗ cho mùa sinh sản tiếp theo. Tùy theo nhiệm vụ, yêu cầu thị trường, cũng như năng lực và cơ sở vật chất của từng cơ sở, từng trại giống để tính toán số lượng cá bố mẹ nuôi vỗ cho phù hợp.

    Ðối với cá tra, ở các tỉnh Nam bộ mùa vụ nuôi vỗ bắt đầu từ tháng 10 – 11 năm trước, các tỉnh miền Trung ( từ Ðà nẵng trở vào ) thời gian bắt đầu nuôi có thể chậm hơn khoảng một tháng. Các tỉnh miền Bắc do ảnh hưởng thời tiết lạnh mùa đông nên nuôi vỗ phải muộn hơn, đàn cá phải được nuôi lưu giữ qua đông và nuôi vỗ tích cực từ tháng 3 trở đi. Ở khu vực Nam bộ thời gian cá thành thục và bước vào sinh sản từ tháng 3, mùa cá đẻ có thể kéo dài tới tháng 9. Khu vực các tỉnh miền Trung thời gian cá thành thục và cho đẻ muộn hơn, từ tháng 4 và kéo dài đến tháng 9 hàng năm.

    Cá ba sa đang được nuôi để sinh sản chủ yếu tập trung ở các tỉnh Ðồng bằng sông Cửu long, mùa vụ bắt đầu nuôi vỗ từ tháng 10 năm trước. Cá thành thục và cho đẻ tập trung từ tháng 4-5, mùa đẻ có thể kéo dài tới tháng 9.

    Trong mùa vụ sinh sản nhân tạo cả hai loài cá tra và ba sa, nhiệt độ nước thích hợp cho cá đẻ và ấp trứng từ 28 – 30°C.

    1.5. Thức ăn cho cá bố mẹ

    – Nhu cầu thức ăn của cá bố mẹ .

    Ðể cá phát triển và có sản phẩm sinh dục tốt, cần phải cung cấp thức ăn cho cá đủ về số lượng và chất lượng, cân đối về thành phần dinh dưỡng. Nhu cầu về hàm lượng dinh dưỡng cho cá tra và ba sa bố mẹ tương đối cao, phải có đủ và cân đối hàm lượng các loại như đạm, đường, mỡ, vitamin, chất khoáng. Ðặc biệt hàm lượng đạm (Protein) phải đảm bảo từ 30% (cá tra) và 40% (cá ba sa) trở lên thì cá mới thành thục tốt. Hàm lượng Lipit tối thiểu 10% trở lên. Có hai loại thức ăn chủ yếu thường dùng hiện nay là thức ăn hỗn hợp tự chế biến và thức ăn viên công nghiệp.

    a- Thức ăn hỗn hợp tự chế biến

    Nguyên liệu để chế biến thức ăn cho cá bao gồm phụ phẩm nông nghiệp (cám, tấm, bột, lúa lép nghiền mịn, bột đậu tương, bột ngô, bột sắn), cá tạp, cá vụn, đầu tôm cá, khô cá biển, bột cá lạt, con ruốc (moi), bột xương, rau xanh (rau muống, rau khoai lang, rau cải) quả (bí ngô), cùi dừa v.v. Ngoài ra nên bổ sung thêm các loại vitamin (A,C,D,E), đặc biệt là vitamin C, pmix khoáng các thành phần chứa nguyên tố vi lượng vào thức ăn cho cá, giúp cá tăng sức đề kháng phòng chống lại được bệnh tật và nhanh phát dục.

    Ðể thức ăn có đủ hàm lượng dinh dưỡng cần thiết và cân đối cho cá, ta phải chọn một số thành phần trên để trộn và chế biến thành thức ăn. Một số công thức phối trộn nguyên liệu chế biến thức ăn có thể tham khảo ở bảng sau :

    Bảng 2- Một số công thức chế biến thức ăn cho cá tra

    Công thức 1

    – Cá tạp, cá vụn (tươi) 90% .

    – Cám gạo : 9% .

    – mi khoáng 1% .

    – Vitamin C 10mg/100kg thức ăn .

    Công thức 2

    – Cá vụn (khô) 65% .

    – Cám gạo 15% .

    – Bột ngô (bắp) 19% .

    – mi khoáng 1% .

    – Vitamin C 10mg/100kg thức ăn .

    Công thức 3

    – Bột cá lạt 50-60% .

    – Cám gạo 20-30% .

    – Bột ngô (bắp) 19% .

    – mi khoáng 1% .

    – Vitamin C 10mg/100kg thức ăn .

    Công thức 4

    – Bột cá lạt 50-60% .

    – Bột đậu tương 20% .

    – Cám gạo 19-29% .

    – mi khoáng 1% .

    – Vitamin C 10mg/100kg thức ăn .

    Nguyên liệu phải đảm bảo sạch, không bị mốc hoặc biến chất hay quá hạn sử dụng, cá tạp, cá vụn hoặc đầu tôm cá, phụ phẩm lò mổ không bị ươn thối. Tuyệt đối không sử dụng các hoá chất hoặc chất kháng sinh bị cấm sử dụng để trộn vào thức ăn chế biến cho cá. Theo quyết định số 01-2001/BTS ngày 20/01/2001 của Bộ Thuỷ Sản.

    Theo công thức thức ăn, các loại nguyên liệu được nghiền nát , phối trộn đều và nấu chín. Lò nấu thức ăn đặt trên sàn bè để thuận tiện cung cấp thức ăn cho cá. Thức ăn sau khi nấu chín, để nguội có thể ép viên hoặc vo thành nắm nhỏ rồi rải cho cá ăn. Cũng có thể dùng máy ép đùn đưa thức ăn trực tiếp xuống bè nuôi.

    b- Thức ăn viên công nghiệp

    Thức ăn cho cá tra bố mẹ phải có hàm lượng đạm 30% và thức ăn cho cá ba sa có hàm lượng đạm 40% trở lên. Có thức ăn viên dạng chìm và dạng nổi với các cỡ thức ăn khác nhau cho cá ở từng giai đoạn phát triển, dạng thức ăn viên nổi thì cá dễ dàng sử dụng hơn. Thức ăn viên sử dụng cho cá phải đảm bảo hoàn toàn không chứa các hoá chất hoặc thuốc kháng sinh bị cấm sử dụng và dư lượng các chất được phép sử dụng phải trong mức giới hạn cho phép.

    c- Cho cá ăn

    Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần, buổi sáng ( 7-8 giờ ) và buổi chiều (16-17 giờ). Khẩu phần cho cá ăn hàng ngày với thức ăn hỗn hợp tự chế biến từ 5 – 8% thể trọng cá, thức ăn viên công nghiệp 2-3% thể trọng ( tức là cứ 100 kg cá thì cho ăn 5 – 8 kg thức ăn tự chế biến hoặc 2-3 kg thức ăn viên công nghiệp ). Trong ao nên cho thức ăn vào sàng (hoặc nia) và treo cách đáy ao 25- 30cm. Nên cho cá ăn ở nhiều điểm (nhiều sàng ăn) để cá được ăn đều. Không đổ thức ăn một lượt xuống ao hoặc bè mà rải từ từ xuống ao hoặc bè cho tất cả cá đều được ăn. Không cho cá ăn những thức ăn bị ôi thiu, những thức ăn bị mốc hoặc qúa hạn sử dụng.

    Hàng ngày phải quan sát hoạt động và khả năng ăn thức ăn cuả cá để kịp thời điều chỉnh tăng giảm lượng thức ăn cho phù hợp. Sau khi cá ăn khoảng 2 giờ nên kiểm tra sàng ăn để xem mức ăn của cá. Vào thời gian đầu mới nuôi vỗ, cá ăn mạnh nên khẩu phần ăn cao hơn những giai đoạn khác (thức ăn hỗn hợp có thể tới 8%, thức ăn công nghiệp tới 3%). Giai đoạn tuyến sinh dục cá bước vào thành thục và chuẩn bị đẻ trứng thì cá ăn kém đi, khẩu phần ăn giảm xuống. Những ngày thời tiết nóng, nhiệt độ nước ao cao trên 32°C có thể làm cho cá ăn ít hơn hoặc thậm chí bỏ ăn. Cá nuôi trong bè ở những vùng ảnh hưởng thủy triều nên cho ăn vào lúc triều cường (thủy triều lên) hoặc vào lúc nước chảy mạnh để cá không bị mất sức và thoải mái sau khi ăn no.

    1.6. Quản lý ao và bè nuôi vỗ cá bố mẹ

    Ao nuôi vỗ cá bố mẹ phải thay nước thường xuyên để giữ cho môi trường ao nuôi sạch và cá khoẻ mạnh. Có thể thay nước bằng thủy triều hoặc dùng máy bơm.Thời gian đầu nuôi vỗ phải thay nước ít nhất mỗi tuần một lần, mỗi lần 20% thể tích nước trong ao.Từ tháng thứ ba trở đi cần thay nước mỗi ngày 10-20% thể tích để kích thích cá thành thục tốt. Khi thấy chất lượng nước ao bị xấu phải thay nhiều nước hơn lượng nước thay định kỳ để môi trường ao trở lại bình thường.

    Khi nuôi cá trong bè, thường xuyên kiểm tra các chi tiết bè như dây neo, phao, lưới chắn để kịp thời tu chỉnh, nhanh chóng gỡ bỏ rác bám vào bè. Dùng máy bơm quạt nước bổ sung khi nước chảy yếu nhằm tăng thêm lượng oxy hoà tan trong nước, hoặc vào mùa lũ có nhiều phù sa phải kịp thời thổi bùn lắng đọng ra khỏi đáy bè. Khu vực sàn bè, nơi nấu và chứa thức ăn sau khi nấu chín phải dọn vệ sinh sạch sẽ hàng ngày.

    Theo dõi chặt chẽ các yếu tố thủy lý, thủy hoá trong ao và bè nuôi, phải có dụng cụ đo các yếu tố (đo oxy hòa tan, nhiệt độ, pH, độ trong của nước.) và sổ nhật ký theo dõi được ghi chép đầy đủ các diễn biến của ao, bè và của cá hàng ngày. Nên kết hợp việc đo các yếu tố thủy lý hoá và quan sát ao vào các thời diểm đo để kịp thời phát hiện những biểu hiện không bình thường của trong ao, bè và nhanh chóng tìm cách sử lý.

    Các yếu tố môi trường ao nuôi ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sự phát dục của cá. Chẳng hạn trong điều kiện pH nhỏ hơn 5 thì cá sẽ chết, pH nhỏ hơn 6 cá sẽ khó phát dục thành thục. Khi nhiệt độ nước tăng cao trên 32°C, cá dễ bỏ ăn, tuyến sinh dục dễ bị thoái hoá.

    Cá tra là loài có cơ quan hô hấp phụ và lấy được khí trời để hô hấp, nên ít khi xảy ra tình trạng nổi đầu hoặc chết do ao thiếu o-xy, mà chủ yếu do các độc tố sinh ra trong quá trình phân hủy vật chất hữu cơ. Ðối với nuôi vỗ cá ba sa nuôi vỗ trong ao, do cá chịu đựng kém với tình trạng hàm lượng o-xy hoà tan trong nước bị giảm thấp, nhất là vào các ngày nóng, nhiệt độ lên cao, vào buổi sáng sớm thường có hiện tượng cá nổi đầu. Nếu cá nổi đầu nhiều lần thì làm cho kết quả phát dục không tốt, buồng trứng của cá sẽ khó đạt tới thành thục và kết quả sinh sản sẽ kém. Nếu nổi đầu nặng có thể làm cho cá chết ngạt. Trong trường hợp cá nổi đầu phải kịp thời cấp nước mới hoặc bơm nước phun mưa cho ao nhằm tăng thêm lượng o-xy hoà tan, giúp cho cá khoẻ lại.

    1.7. Kiểm tra sự phát dục của cá bố mẹ

    Kiểm tra lần đầu sau khi nuôi vỗ được 2 tháng nhằm đánh giá độ béo và sức khoẻ của cá. Tháng thứ ba bắt đầu kiểm tra trứng và tinh dịch của cá để đánh giá mức độ phát dục và điều chỉnh chế độ nuôi vỗ hợp lý. Khi kéo bắt cá bố mẹ, nên dùng lưới loại sợi mềm, tốt nhất là loại bằng sợi dệt, không có gút để tránh làm xây sát cá. Dùng băng ca vải mềm may theo kích thước thích hợp với độ lớn của cá để giữ cá khi kiểm tra. Dùng que thăm trứng để lấy trứng cá cái và vuốt bụng cá đực xem tinh dịch. Từ tháng thư tư khi buồng trứng của đa số cá cái chuyển sang giai đoạn IV và nhiều cá đực đã có tinh dịch, cần kiểm tra mỗi tháng 2 lần. Mỗi lần kiểm tra phải ghi chép đầy đủ các số liệu của từng cá thể đực cái đã được đánh dấu (về chiều dài, trọng lượng cơ thể, tình trạng sức khoẻ, bệnh tật, kích thước vòng bụng và độ mềm.). Dùng tay sờ nắn bụng cá và cảm nhận độ mềm của bụng để đánh giá sự phát dục. Dùng que thăm trứng lấy trứng từng cá cái ra xem mức độ thành thục và vuốt kiểm tra tinh dịch cá đực. Cá được đánh dấu theo dõi cẩn thận số cá đã thành thục để dự định ngày cho đẻ. Phải ngưng cho cá ăn trước khi kiểm tra.

    2. Kỹ thuật cho cá đẻ nhân tạo

    2.1. Công trình phục vụ cho cá đẻ nhân tạo

    Bể đẻ được thiết kế theo mẫu của Trung quốc có cải tiến ( từ những thập niên 60 thế kỷ trước ), bể xây bằng xi măng, hình trụ tròn đường kính từ 3-5m, chiều cao 2 – 3m. Nước cấp vào bể phun theo đường tiếp tuyến để tạo dòng nước chảy vòng tròn liên tục. Sử dụng bể này để để chứa cá bó mẹ sau khi tiêm kích dục tố.

    Khi cá rụng trứng phải bắt cá bố mẹ ra và vuốt trứng, vuốt tinh dịch để tiến hành thụ tinh nhân tạo.

    Ngoài bể đẻ hình tròn, có thể dùng bể xi măng hình vuông, chữ nhật để chứa cá bố mẹ. Nhiều nơi đã làm bể tròn bằng composite, bằng nhựa hoặc kim loại như nhôm, inox với kích thước nhỏ ( 1 – 5m3 ) và phù hợp với cỡ cá bố mẹ cho đẻ.

    – Bể ấp trứng cá: Những dạng bể xây bằng xi măng, có bể vòng hình tròn trong hệ thống bể đẻ kiểu Trung quốc, phù hợp cho ấp các loại trứng trôi nổi (mè, trôi, trắm.). Bể được sử dụng ấp trứng cá tra, cá ba sa sau khi đã khử tính dính của trứng hoặc trứng không khử dính cho bám vào các loại giá thể (vật bám) như rễ bèo lục bình (bèo tây), xơ dừa, xơ lynon, lưới nilon. Bể xi măng hình vuông hoặc chữ nhật cũng chủ yếu dùng cho ấp trứng không khử dính, có nước chảy nhẹ và hỗ trợ thêm sục khí trong quá trình ấp. Ngoài bể xây xi măng, còn có một số loại dụng cụ khác dùng để ấp trứng cá tra và ba sa như bình vây (Weis) thủy tinh hoặc nhựa trong suốt có thể tích 5-20 lít, hoặc bể composite, bể nhựa tròn thể tích 600-1000 lít. Nước ấp trứng được cấp liên tục và có thêm sục khí. 2.2. Mùa vụ sinh sản Trong tự nhiên cá thành thục và sinh sản vào cuối tháng 4 và đầu tháng 5 âm lịch. Ðàn cá đẻ tự nhiên đẻ không đồng loạt nên thời gian xuất hiện cá bột trên sông cũng kéo dài 3-4 đợt trong vòng 2 tháng. Chưa phát hiện được cá tra tái thành thục trong tự nhiên. Ðối với cá tra nuôi vỗ cho sinh sản nhân tạo ở các tỉnh miền Nam (từ Ðà nẵng trở vào) mùa vụ thành thục của cá bố mẹ và bắt đầu cho đẻ từ tháng 2-3 trở đi, mùa vụ sinh sản có thể kéo dài tới tháng 10. Sau lần sinh sản thứ nhất, cá có thể tái thành thục trở lại và đẻ tiếp lần thứ hai. Cá tra bố mẹ tái thành thục 1-2 lần trong năm, thời gian để cá tái thành thục từ 1-2 tháng. Mùa vụ thành thục và bắt đầu cho đẻ của cá ba sa trong tự nhiên cũng kéo dài 3-4 tháng, do đó sự xuất hiện cá giống cá ba sa trên sông cũng kéo dài. Có 2 đợt xuất hiện cá giống trên sông, vụ đầu tiên từ tháng 6-8 và vụ thứ hai tháng 10-12 hàng năm. Từ dẫn liệu này có thể cho rằng cá ba sa tái thành thục trong tự nhiên. Mùa thành thục và cho đẻ của cá bố mẹ nuôi vỗ sinh sản nhân tạo trong ao từ cuối tháng 2 và kéo dài đến tháng 7. Cá ba sa cũng tái thành thục trong ao sau lần đẻ thứ nhất, thời gian tái thành thục từ 2-3 tháng. Nhiệt độ nước thích hợp nhất cho cá tra và ba sa trong mùa vụ đẻ từ 28-300C. Nếu nhiệt dộ thấp hơn 240C thì trứng cá khó nở, do phôi cá không phát triển được. Nếu nhiệt độ cao quá 320C thì trứng bị ung 2.3. Chọn cá bố mẹ cho đẻ Khi kiểm tra cá bố mẹ để tuyển cho đẻ, chọn những cá khỏe mạnh, bơi nhanh nhẹn, chú ý chọn những con cá đã được đánh dấu thành thục tốt ở lần kiểm tra trước. Quan sát bên ngoài cá cái thấy bụng to, sờ thấy mềm, lỗ sinh dục sưng hồng. Dùng que thăm trứng lấy ra một ít trứng để trực tiếp đánh giá mức thành thục. Với cá tra, các hạt trứng đều, rời, căng tròn, màu vàng nhạt hoặc trắng nhạt. Quan sát trên kính lúp thấy mạch máu còn ít hoặc đã bị đứt đoạn. Trên 70% số trứng đã phân cực và có đường kính hạt trứng từ 0,9mm trở lên. Cá cái ba sa cũng có các hạt trứng đều, rời, ít mạch máu, nhân đã phân cực. Số trứng có đường kính hạt trứng từ 1,4mm trở lên chiếm 70%. Cá đực có lỗ niệu sinh dục hơi lồi, khi vuốt nhẹ hai bên lườn bụng đến gần hậu môn thì thấy tinh dịch (sẹ) trắng như sữa chảy ra. Nên chọn những cá đực có sẹ đặc. 2.4. Sử dụng chất kích thích sinh sản – kích dục tố và phương pháp tiêm cho cá Cá tra và ba sa nuôi vỗ trong ao và trong bè tuy đạt tới thành thục nhưng do không đủ điều kiện về các yếu tố sinh thái nên không thể rụng trứng và cũng không tự đẻ được. Vì vậy phải tiêm các chất kích thích sinh sản cho cả cá đực và cá cái nhằm thúc đẩy quá trình rụng trứng của cá, sau đó dùng phương pháp vuốt trứng cá cái và trộn với tinh dịch cá đực để tiến hành thụ tinh nhân tạo. Biện pháp dùng chất kích thích sinh sản hoặc kích dục tố để kích thích cá đẻ được áp dụng cho hầu hết các loài cá nuôi hiện nay. Các chất kích thích sinh sản-kích dục tố sử dụng cho cá tra và ba sa gồm các loại chính như sau: – HCG, viết tắt của chất Human Chorionic Gonadotropin, đây là một hormon sinh dục có nguồn gốc từ động vật, HCG có trong nước tiểu của phụ nữ có thai ở tháng thứ 3, được chiết xuất và sử dụng rất tốt cho cá, động vật và cả cho người. Thuốc được đóng gói trong các lọ thủy tinh với lượng chứa 5.000 UI hoặc 10.000 UI (UI viết tắt của chữ đơn vị quốc tế – Unit International). Khi dùng chỉ cần pha với nước cất hoặc nước muối sinh lý. HCG có tác dụng chuyển hoá buồng trứng và gây rụng trứng.

    – LH-RHa, viết tắt của Lutenizing Hormon-Releasing Hormon analog, là hormon tổng hợp và được sử dụng rộng rãi cho cá và động vật nói chung. Thuốc sản xuất ở nhiều nước, của Trung quốc sản xuất được đóng gói trong lọ thủy tinh với lượng chứa 200, 500, 1000 mg (micro gam). LH-RHa có tác dụng chuyển hoá buồng trứng đồng thời gián tiếp gây rụng trứng. Khi sử dụng nhất thiết phải dùng kèm thêm hoạt chất gọi là Domperidon (viên DOM).

    – Não thùy thể ( tuyến yên ) của các loài cá ( Mè trắng, chép , trôi … ) Các loại kích dục tố này có thể sử dụng đơn hoặc kết hợp nhiều loại để tăng hiệu ứng. Nếu dùng kết hợp , chỉ nên dùng ở liều quyết định. Tuy nhiên nếu dùng kết hợp thì phải chọn 1 loại làm chính. Phương pháp tiêm Sau khi chọn xong những cá cho đẻ thì tiến hành tiêm thuốc kích thích sinh sản. Ðối với cá tra và ba sa dùng phương pháp tiêm nhiều lần, với cá cái thì 2-4 lần sơ bộ và 1 lần quyết định. Với cá đực thì tiêm 1 lần cùng lúc với liều quyết định của cá cái. Thời gian giữa các lần sơ bộ là 12 giờ (cá tra) hoặc 24 giờ (cá ba sa). Giữa liều sơ bộ cuối cùng và liều quyết định cách nhau 8 – 12 giờ.

    Các chất sử dụng trong liều sơ bộ là kích dục tố não thùy thể và HCG, không dùng LH-RHa cho liều sơ bộ, vì có thể gây ra sự rụng trứng trong khi đa số trứng trong buồng trứng chưa chuyển hết sang giai đọan chín, dẫn đến tỷ lệ thụ tinh kém và kết quả sinh sản sẽ thấp.

    Tùy theo chất lượng trứng và chủng loại kích dục tố ta áp dụng các liều tiêm thích hợp.

    Cho cá tra :

    – HCG : với cá cái, liều tiêm sơ bộ 300 – 500 UI/kg; liều quyết định 2500 – 3000 UI /kg . Với cá đực 300UI/kg.

    – Não thùy thể : với cá cái, liều sơ bộ 0,5mg/kg; liều quyết định 5 – 7mg/kg. Với cá đực 0,5mg/kg.

    – LH-RHa : chỉ dùng cho liều quyết định, với cá cái 100 – 150g/kg. Không dùng cho cá đực và liều sơ bộ của cá cái.

    – Nếu phối hợp giữa HCG và não thùy, liều tiêm sơ bộ 300 – 500UI hoặc 0,5 mg não thùy/kg; liều quyết định 1000 UI + 2mg não thùy/kg . Với cá đực liều lượng bằng 1/3 – 1/2 của cá cái.

    Cho cá ba sa :

    chủ yếu sử dụng HCG hoặc phối hợp HCG với não thùy.

    – HCG, với cá cái, liều tiêm sơ bộ 500 UI/kg; liều quyết định 3000 UI /kg . Với cá đực liều dùng bằng 1/3 – 1/2 của cá cái.

    – Phối hợp giữa HCG và não thùy, liều tiêm sơ bộ 500UI/kg hoặc 0,5 mg não thùy/kg; liều quyết định 1000 UI + 2mg não thùy/kg . Với cá đực liều lượng bằng 1/3 – 1/2 của cá cái.

    – Thời gian hiệu ứng thuốc : sau 8 – 12 giờ liều tiêm quyết định thì trứng rụng.

    – Vị trí tiêm : tiêm ở gốc vây ngực, ở cơ lưng hoặc ở xoang bụng. Ðối với cá tra là cá không có vẩy nên tiêm ở cơ đơn giản hơn. Có thể tiêm trực tiếp kích dục tố HCG và não thùy thẳng vào xoang buồng trứng. Ở các lần tiêm khác nhau nên tiêm ở vị trí khác nhau để tránh làm cá bị thương. Khi tiêm, đặt mũi kim đúng vào vị trí đã định, nghiêng mũi kim một góc 450 so với thân cá, bơm thuốc nhanh nhưng không vội vàng và rút ra từ từ để tránh thuốc bị trào ra ngoài.

    2.5. Vuốt trứng và thụ tinh

    Ðối với cá tra và ba sa khi sinh sản nhân tạo phải dùng phương pháp vuốt trứng và thụ tinh khô. Trước khi tiến hành vuốt trứng, đưa cá vào băng ca và nhúng cá vào dung dịch thuốc gây mê Tricane (thường gọi là MS 222, tên hóa học là 3-amino benzoic acid ethyl ester methanesulfonate) nồng độ 40mg/lít trong 3-4 phút để cá bị mê và không còn dãy dụa trong khi vuốt trứng. Thao tác vuốt trứng phải nhẹ nhàng và khẩn trương tránh làm cho cá bị thương, để trứng chảy ra gọn vào trong chậu khô, vuốt từ phần trên xuống dưới cho hết trứng đã rụng. Nếu cá rụng trứng róc, có thể vuốt một lần là hết trứng. Ðôi khi phải vuốt 2,3 lần do trứng cá rụng cục bộ hoặc rụng không đồng lọat. Cá vuốt trứng xong phải lập tức ngâm vào nước sạch sau khỏang 3 – 4 phút thì tỉnh lại.

    Ðể tính được lượng trứng cá đã đẻ được, dùng cách tính theo phương pháp trọng lượng như sau : cân toàn bộ trọng lượng trứng vuốt được, cân riêng 10 gam và đếm để tính số trứng của 1 gam, nhân với tổng trọng lượng trứng (tính bằng gam) thì biết tổng lượng trứng đã vuốt được. Nếu đem chia số lượng trứng vuốt được cho trọng lượng cá cái ta được con số gọi là sức sinh sản tương đối thực tế. Sức sinh sản tương đối thực tế của cá tra trong khỏang 90 – 130.000 trứng và cá ba sa là 10-12.000 trứng (cho 1 kg cá cái). Trong thực tế, lượng trứng vuốt được của những cá thể cái rụng trứng róc, cũng chỉ chiếm từ 70 – 80% số trứng có trong buồng trứng.

    Sau khi trứng đã vuốt xong, vuốt tinh dịch cá đực tưới trực tiếp lên trứng, dùng lông gà khô trộn đều trứng với tinh dịch khỏang 10-20 giây, sau đó cho nước sạch vào ngập trứng, tiếp tục dùng lông gà khuấy đều khỏang 20-30 giây để trứng họat hóa và thụ tinh. Tiếp theo đó đổ hết nước cũ đi và cho cho thêm nước mới, chú ý cho nước từ từ, vừa cho nước vừa khuấy, sau đó đổ dung dịch khử dính vào để khử tính dính của trứng.

    2.6. Khử tính dính của trứng

    Trứng cá tra và ba sa thuộc loại trứng có tính dính. Sau khi trứng rụng và tiếp xúc với nước thì trở nên dính, có thể dễ dàng dính vào các vật trong nước cũng như dính với nhau. Tính dính của trứng gây nhiều khó khăn cho việc ấp trứng, nhất là trong sản xuất giống hàng lọat với số lượng lớn. Nếu ấp trứng không khử dính thì cho trứng dính lên giá thể và ấp trong bể ấp hoặc bể vòng. Trứng khử dính được ấp trong bể vòng hoặc bình vây.

    Có thể dùng một số hoạt chất như tanin ( có vị chát ), men bromelin ( tìm thấy trong nước ép qủa dứa ), sữa bột v.v để khử tính dính của trứng cá tra và ba sa. Cách thông dụng nhất hiện nay là dùng tanin pha với nước thành nồng độ 0,1%. Sau khi cho chất khử dính vào trứng ta dùng lông gà khuấy đều trong khoảng 30 giây thì ta chắt nước đó ra và dùng nước sạch rửa trứng nhiều lần cho sạch, sau đó cho trứng vào bình vây hoặc bể vòng để ấp.

    Ngoài tanin ta còn dùng nước ép quả dứa (Ananas sativa) gọi là chế phẩm bromelin thô, để khử dính. Với 25ml nước ép quả dứa pha thêm nước để thành 1 lít dung dịch khử dính, dung dịch này có chứa bromelin (một lọai enzyme phân giải protein). Ðổ dung dịch vào trứng đã thụ tinh, khuấy đều trong khỏang 1 phút, chắt bỏ dung dịch khử dính rồi cho nước lã vào rửa sạch trứng và đem ấp.

    2.7. Trứng không khử dính Nếu trứng không khử dính thì ta cho trứng dính vào giá thể

    Giá thể có thể là rễ bèo tây (lục bình), xơ dừa, xơ nylon, có thể làm bằng lưới nilon hoặc lưới vèo (sợi cước nhỏ) căng trên một cái khung vuông, mỗi cạnh dài 35-40cm. Trước khi sử dụng phải rửa sạch, tẩy trùng để diệt hết các vi khuẩn và nấm có hại cho trứng. Khi trứng đã thụ tinh xong, đặt giá thể ngập 3-5cm trong nước, dùng lông gà vẩy đều để trứng bám dính ngay lên bề mặt giá thể. Giá thể có dính trứng được đặt trong bể ấp có nước chảy liên tục và hỗ trợ thêm sục khí.

    2.8. Ấp trứng

    Theo dõi quá trình ấp trứng

    Ấp trứng khử dính: ấp trong bình vây thủy tinh, nhựa trong suốt có thể tích 5 – 10 lít hoặc bình vây composite 600 – 1000 lít, mật độ ấp trứng cá tra 20.000 – 30.000 trứng/lít, trứng cá ba sa 500 trứng/lít.

    Ấp trứng không khử dính chủ yếu cho cá tra, ấp trong bể vòng hoặc bể composite có nước chảy liên tục, mật độ 4000 – 5000 trứng/lít. Ấp trong bể nước tĩnh thay đổi chậm, có sục khí, mật độ ấp 1500 – 2000 trứng/lít.

    Thường xuyên chú ý điều chỉnh lưu lượng nước chảy vào bể vòng hoặc bình vây để trứng khử dính đảo đều, không bị lắng đọng ở đáy bình và trứng không khử dính sẽ luôn có đủ o-xy cho quá trình phát triển phôi. Nhiệt độ nước thích hợp cho phôi cá phát triển từ 28-300 C. Nhiệt độ càng cao thì phôi phát triển nhanh, nhưng nếu nhiệt độ quá cao thì phôi dễ bị dị hình, cá sau khi nở có sức sống yếu, khi nhiệt độ nước ấp trên 320C thì phôi bị chết. Ngược lại nếu nhiệt độ quá thấp thì phôi phát triển chậm, thời gian ấp nở kéo dài hơn, nhiều phôi bị dị hình. Nếu nhiệt độ thấp hơn 240C thì phôi ngừng phát triển và chết. Thời gian ấp để trứng nở thành cá bột ở nhiệt độ nước 28-300C, của cá tra là 22-24 giờ, của cá ba sa là 30-33 giờ. Thời gian để cá nở hết tòan bộ có khi kéo dài hơn 1-2 giờ tùy theo nhiệt độ và khoảng cách giữa các lần thụ tinh của trứng đưa vào bể ấp. Khi cá bắt đầu nở, cần tăng lưu lượng nước qua bể ấp đẩy nhanh vỏ trứng và các chất thải ra ngòai. Theo dõi khi cá đã nở hết phải vớt giá thể đi.

    Quản lý và thu cá bột :

    Cá tra sau khi nở 30 – 32 giờ thì hết noãn hoàng, cá bắt đầu tìm kiếm thức ăn bên ngoài. Giai đọan cá bột thì cá tra thể hiện tính dữ (tính ăn thịt) và chúng tìm ăn các thức ăn là động vật sống có kích thước vừa với cỡ miệng của chúng. Trong bể ấp do không có thức ăn phù hợp nên xảy ra tình trạng cá tra bột ăn thịt lẫn nhau. Do đó khi cá nở được 20-25 giờ nên nhanh chóng đưa cá bột xuống ao ương nuôi hoặc xuất bán, không nên để quá thời gian này. Nếu để lâu trên bể, khi cá hết noãn hoàng thì chúng sẽ cắn đuôi ăn thịt lẫn nhau làm hao hụt nhiều cá bột.

    Ðối với cá ba sa không có hiện tượng cá bột ăn thịt lẫn nhau. Sau khi hết noãn hoàng chúng cũng thích ăn các loài động vật có kích thước nhỏ. Chúng ta có thể cho cá ăn thức ăn là moina, daphnia hoặc tốt nhất là ấu trùng artemia.

    Trong quá trình giữ cá mới nở trong bể ấp, cần điều chỉnh lưu lượng nước qua bể ấp thích hợp để giữ cho môi trường nước ấp được sạch và cá bột không bị đảo lộn nhiều. Ðảm bảo nhiệt độ nước lúc này trong khoảng thích hợp với cá bột, từ 28 – 30°C.

    Khi thu cá bột, cho nước chảy nhẹ hơn, dùng vợt vải mềm ( hoặc muoseline ) để vớt cá. Thường dùng phương pháp thể tích để tính lượng cá bột. Dùng cốc đong hoặc ly uống nước đã biết chính xác thể tích, vớt cá bột và để cho róc nước, dùng cốc đong xúc cá bột và đếm số cốc. Sau đó lấy ra 5-10 ml cá bột để đếm và tính được số cá bột có trong 1ml. Nhân số này với tổng số thể tích cốc cá bột đã đong ta sẽ biết tổng số cá bột thu được.

    3. Kỹ thuật ương nuôi cá tra giống

    3.1. Nhu cầu thức ăn của cá sau khi hết noãn hoàng

    – Cá tra :

    Sau khi hết noãn hoàng, cá tra bột thích ăn mồi tươi sống, có mùi tanh. Những thức ăn ưa thích của cá tra bột là: cá bột các loài ( như mè vinh, he, rô đồng .), các loài giáp xác thấp ( moina, daphnia, còn gọi là trứng nước ), ấu trùng artemia. Chúng vẫn ăn lẫn nhau nếu ta không kịp thời cung cấp thức ăn cho chúng.

    Biện pháp giải quyết tốt nhất là phải tạo được một lượng thức ăn tự nhiên có sẵn và đầy đủ trong ao ương trước khi thả cá bột, nhằm đáp ứng đủ nhu cầu ăn của cá, hạn chế được sự ăn lẫn nhau của chúng.

    – Cá ba sa:

    Cũng dễ dàng thích hợp với các thức ăn là động vật giáp xác thấp (moina, daphnia, ấu trùng artemia.), dễ thích nghi với các lọai thức ăn khác nhau có nguồn gốc động vật, hoặc thậm chí ăn cả thức ăn viên với cỡ viên phù hợp. Cũng như ương cá tra, việc tạo nguồn thức ăn tự nhiên trong ao cho cá ba sa vào giai đọan đầu mới thả xuống ao là rất quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá hương, cá giống ương nuôi.

    3.2. Kỹ thuật ương nuôi

    – Chuẩn bị ao :

    Ao có diện tích lớn nhỏ tùy theo khả năng từng hộ gia đình và cơ sở sản xuất giống, nhưng càng lớn càng tốt và không nên quá hẹp (dưới 200 m2). Ðộ sâu nước thích hợp 1,2 – 1,5 m. Nguồn nước cấp cho ao phải sạch và chủ động.

    Các bước tiến hành khâu chuẩn bị ao :

    Tát cạn ao, diệt hết cá tạp, cá dữ và địch hại (rắn, cua, ếch, chuột.) dùng chất Rotenon để diệt ( có trong dây thuốc cá ), lượng dùng dây thuốc cá tươi 1 kg cho 100 m3 nước ao.

    Sên vét bớt bùn đáy.

    Bón vôi : rải đều đáy và mái bờ ao, lượng dùng 7 – 10 kg/100m2.

    Phơi đáy ao 1 – 2 ngày, chú ý những vùng ảnh hưởng phèn (pH thấp) thì không nên phơi đáy ao, vì sẽ làm cho phèn dễ theo mao mạch thoát lên tầng mặt

    Bón lót cho ao bằng bột đậu tương và bột cá, liều lượng mỗi lọai 0,5kg/100m2 đáy ao.

    Lọc nước vào ao từ từ qua lưới lọc mắt dày, mực nước sâu 0,3 – 0,4 m.

    Thả giống trứng nước và trùng chỉ ( 0,5 – 1 kg trứng nước và 2kg trùng chỉ cho 100 m2 đáy ao ).

    Sau một ngày, tiếp tục đưa nước vào ao ngập đến 0,7 – 0,8 m.

    Thả cá bột.

    Tiếp tục đưa nước vào ao, từ từ sau 2 ngày đến đủ chiều sâu nước yêu cầu .

    – Lựa chọn cá bột để thả : quan sát cá đều cỡ, bơi lội nhanh nhẹn, màu sắc cá tươi sáng. Cá ba sa đã hết nõan hòang, cá tra có thể sắp hết hoặc vừa hết noãn ho.

    Mật độ ương nuôi : ương trong ao, mật độ cá tra 250 – 400 con/m2, cá ba sa 50 – 100 con/m2. Ương trong bể xi măng, mật độ cá ba sa 400 – 500 con/m2 .

    Thức ăn và chăm sóc cá :

    Khâu chuẩn bị ao đầy đủ là ta đã gây nuôi được thức ăn tự nhiên, giải quyết được phần thức ăn quan trọng có đầy đủ dinh dưỡng cho nhu cầu của cá trong giai đọan đầu, khi thả cá xuống ao là đã có sẵn nguồn thức ăn.

    Ðối với cá tra, ngòai thức ăn tự nhiên có sẵn trong ao, tiếp tục bổ sung các loại thức ăn khác như bột đậu nành, lòng đỏ trứng, bột cá, sữa bột, vừa để cấp thức ăn trức tiếp cho cá, vừa để tạo môi trường gây nuôi tiếp tục các giống loài thức ăn tự nhiên cho cá ( như trùng chỉ, trứng nước …). Cách thức này kéo dài trong tuần lễ đầu.

    Lượng dùng : Cứ 10.000 cá thả trong ao, dùng 20 lòng đỏ trứng vịt, 200 gam đậu nành được xay nhuyễn và nấu chín, cho ăn mỗi ngày từ 4 – 5 lần. Sau 10 ngày, khi cá đã bắt đầu ăn móng (nổi lên đớp khí), tăng thêm 50% lượng trên và bổ sung thêm trứng nước và trùng chỉ. Lúc này đã có thể cho ăn dặm thêm bằng cá tươi xay nhuyễn và bắt đầu cho ăn thức ăn chế biến gồm cám trộn bột cá hoặc cá xay nhuyễn, nấu chín và đưa xuống sàng ăn ( cám + bột cá : tỉ lệ hoặc cám + cá tươi: tỉ lệ 1/3 ). Khẩu phần ăn 5 – 7% mỗi ngày.

    Từ tuần thứ 4 cho đến khi thu họach cá giống, cho ăn thức ăn chế biến hoặc thức ăn viên công nghiệp. Thức ăn tự chế biến với thành phần như giai đọan trước đó, khẩu phần ăn 5 – 7%. Thức ăn viên công nghiệp có hàm lượng đạm 30 – 35%, khẩu phần ăn 2 – 3%.

    Quy cỡ cá hương, giống cá tra khi thu họach như sau:

    Ương thành cá hương : sau 3 tuần cá đạt cỡ chiều dài thân 2,7 – 3 cm, cao thân 0,7 cm.

    Ương cá giống : tiếp tục ương 40-50 ngày, cá đạt cỡ chiều dài thân 8-10cm, chiều cao thân 2 cm.+ Ương cá giống lớn : ương thêm 30 – 40 ngày, cá đạt cỡ chiều dài 16 – 20cm, cao thân 3 cm.

    Ðối với cá ba sa, thức ăn trong 2 tuần đầu cũng giống như với cá tra. từ tuần thứ ba cho ăn thức ăn tự chế biến gồm cám và bột cá tỷ lệ 20% cám và 80% bột cá, cộng thêm 1% pmix khóang và vitamin C 10mg/100kg thức ăn. Thức ăn được nấu chín và đưa xuống sàng ăn, khẩu phần ăn hàng ngày 5 – 7% thể trọng cá, mỗi ngày cho ăn 3 – 4 lần.

    Nếu cho cá ăn thức ăn viên công nghiệp, nên chọn kích cỡ viên thích hợp vừa cỡ miệng để cá có thể ăn được. Thức ăn viên cũng được đưa xuống sàng ăn với khẩu phần 2-3%, mỗi ngày cho ăn 3-4 lần.

    Cá ba sa ương trong bể xi măng phải cung cấp thức ăn trong tuần đầu tiên bằng moina, daphnia hoặc ấu trùng artemia, theo dõi và cung cấp thức ăn theo mức ăn của cá. Nhất là cho ăn ấu trùng artemia phải cho vừa đủ vì ấu trùng artemia chỉ sống được trong nước ngọt từ 1-2 giờ, sau đó bị chết. Từ tuần thứ 2 trở đi cho ăn phối hợp trùng chỉ ( Limnodrilus hoffmoistery ) với thức ăn viên công nghiệp. Kích cỡ viên thức ăn ban đầu là 1mm, sau đó tăng dần theo tuổi cá. Khẩu phần ăn thức ăn viên từ 1 – 2% thể trọng kèm theo lượng trùng chỉ 1 kg ( 2 lon sữa bò ) cho 10.000 cá.

    Quy cỡ cá hương, giống cá tra khi thu họach như sau:

    – Ương thành cá hương: sau 3 tuần đạt cỡ dài thân 3-3,2cm, cao thân 0,7 cm.

    – Ương cá giống : ương thêm 60 – 70 ngày, cá đạt cỡ dài thân 10 – 12cm .

    Từ cỡ 10 – 12cm có thể tiếp tục ương trong bè cho đến cỡ giống lớn 18 – 25cm ( 10 – 15 con/kg ) sẽ chuyển vào nuôi thịt trong bè. Thức ăn cung cấp cho cá giai đọan này cũng giống như giai đọan trước.

    3.3. Thu họach và vận chuyển cá giống:

    Ðể cá giống ít bị hao hụt khi thu hoạch, nên áp dụng biện pháp luyện cá giống, bằng cách kéo dồn cá vào lưới để cá quen dần với điều kiện chật chội, nước đục. Dùng lưới dệt sợi mềm không gút, mắt lưới nhỏ hơn chiều cao thân cá để cá không lọt cũng như bị mắc vào lưới; hoặc dùng lưới sợi cước mắt nhỏ để may thành lưới kéo. Sau khi cá đạt cỡ cá hương, mỗi tuần nên kéo dồn cá một lần, chỉ dồn chật cá lại sau đó thả trở lại ao. Cá được luyên sẽ không bị sốc khi kéo thu hoạch, không bị yếu hoặc chết khi đánh bắt để vận chuyển đi xa. Khi thu hoạch cá giống, phải ngưng cho cá ăn trước ít nhất 6 giờ.

    Ðể vận chuyển cá đi, phải chứa cá vào bể có nước chảy từ 10-12 giờ trước khi chuyển, để cá thải hết phân và các chất thải khác. Có thể áp dụng các cách vận chuyển kín hoặc hở để đưa cá đi xa.

    Bảng 3- Mật độ vận chuyển cá trong túi nylon bơm o-xy

    Cá trong túi nylon bơm o-xy được xếp lên các phương tiện vận chuyển như xe ô tô, máy kéo, ba gác máy, ghe thuyền. đưa đến ao thả nuôi. Vận chuyển vào lúc nắng phải che đậy, không để nắng chiếu trực tiếp các túi cá làm tăng nhiệt độ nước trong túi và dễ làm cá bị chết do nóng. Nếu thời gian vận chuyển kéo dài trên 8 giờ thì nên thay nước và bơm lại o-xy mới. Khi đến nơi thả, không nên xả cá ra ngay, mà đưa túi cá xuống nước để trong khoảng 15 phút cho nhiệt độ trong và ngoài túi cân bằng mới tháo đầu túi đổ cho cá bơi từ từ ra ngoài. Tốt nhất là dùng nước muối 2 – 3% tắm cho cá 5 – 6 phút trước khi thả nuôi.

    – Cách chuyển cá bằng phương pháp hở ( không cần túi bơm o-xy )

    Dùng các loại thùng phuy, thùng bằng tôn, nhựa, hình trụ hoặc khối vuông, thể tích 200 – 300 lít, chứa lượng nước 1/2 đến 2/3 thùng. Cá đưa vào thùng phải đều cỡ, khoẻ mạnh, không bị xây sát. Mật độ thả cá trong thùng như sau :

    Cỡ cá 3cm : 50 con/lít.

    Cỡ cá 5 – 7 cm : 40 con/lít

    Cỡ cá 8 – 10 cm : 20 con/lít

    Cỡ cá 15 cm trở lên : 15 con/lít

    Trong khi vận chuyển nên có sục khí cho thùng cá để cung cấp thêm o-xy cho cá, cứ sau 4 – 5 giờ thì thay nước mới. Trước khi thả nuôi nên tắm nước muối 2 – 3% cho cá trong 5 – 6 phút.

    Phát triển bởi:

     

    TRUNG TÂM  MÔI TRƯỜNG & VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP THUỶ SẢN DOPA

     

    ĐC: 37 Thạch Bàn – Phường Thạch Bàn – Long Biên – Hà Nội ( Bản Đồ Đến Dopa Tại Đây )

    ĐT: 04 63 259 389 /09 7 7 710 403 / 097 568 11 21 / 094 568 11 21  

    Mail: thuocthu[email protected]

    Web: http://dopa.vn

                                                 https://www.facebook.com/thuysandopa

     

    --- Bài cũ hơn ---

  • Những Lưu Ý Khi Ương Giống Cá Tra, Basa – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
  • Bán Buôn Cá Basa Phi Lê, Cá Basa Fillet Giá Buôn, Cung Cấp Cá Basa Fillet Đông Lạnh
  • Ăn Hoài Không Chán Với Các Món Ăn Làm Từ Cá Basa Phi Lê
  • Giá Trị Dinh Dưỡng Của Cá Tra, Cá Basa – Cá Da Trơn Việt Nam
  • Đặc Điểm Sinh Học Và Mô Hình Nuôi Cá Basa Cho Năng Suất Cao

Bán Buôn Cá Basa Phi Lê, Cá Basa Fillet Giá Buôn, Cung Cấp Cá Basa Fillet Đông Lạnh

--- Bài mới hơn ---

  • Những Lưu Ý Khi Ương Giống Cá Tra, Basa – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
  • Quy Trình Kỹ Thuật Sản Xuất Giống Cá Tra Và Cá Basa
  • Bán Buôn Cá Basa Cắt Khúc, Bán Sỉ Cá Basa Cắt Khúc Đông Lạnh Giá Rẻ
  • Cá Basa, Basa Cắt Khúc, Bán Cá Basa Cắt Khúc Tại Hà Nội.
  • Cá Ba Sa Trong Tiếng Tiếng Anh
  • Đặc Điểm Cá Basa

    Về ngoại hình, Cá BASA dễ dàng được phân biệt với các loài khác trong họ Pangasius. Thân hình ngắn, kim cương, hơi dẹt, tròn, bụng béo, chiều dài tiêu chuẩn gấp 2,5 lần chiều cao cơ thể. Cá Basa đầu ngắn hơi tròn, dựng đứng. Miệng hẹp, chiều rộng của miệng nhỏ hơn 10% chiều dài tiêu chuẩn, miệng hơi cong dưới mõm. Hàm trên rộng và có thể nhìn thấy khi ngậm miệng, có hai cặp râu, râu tối đa bằng chiều dài của đầu; râu dài dưới 1/3 chiều dài đầu. Răng trên vòm miệng là một cụm vết lõm sâu ở giữa và hai cụm răng trên xương lá mía được chia thành hai. Có 40-46 mang trên vòm đầu tiên, 31 đến 36 tia ở vây hậu môn. Palate với răng ở giữa vòm miệng và răng trên xương mía ở cả hai bên. Chiều cao của đuôi là hơn 7% chiều dài tiêu chuẩn. Lưng có màu nâu, bụng màu trắng.

    Cá Basa là loài cá nuôi kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là dưới hình thức văn hóa. Hàng năm, nuôi bè cung cấp hàng ngàn tấn cá basa cho thị trường nội địa, bên cạnh hàng ngàn tấn nguyên liệu thô làm thức ăn chăn nuôi. Nếu năm 1993, sản lượng bè ở miền Nam Việt Nam ước tính khoảng 17.400 tấn, chủ yếu từ bè Mê Kông thì riêng cá da trơn chiếm sản lượng này (13.400 tấn).

    Cá BaSa Phi Lê – Cá Basa Fillet Là Gì? 

    Cá Basa Fillet là tên gọi của món cá basa chế biến phay miếng dạng Mảnh ( Fillet) cá được chế biến phục vụ cho xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, chính vì thế tên gọi của nó là Fillet, với ưu điểm cá Basa là loại cá nước ngọt da trơn được nuôi tại vùng đồng bằng Sông Cửu Long với giá trị kinh tế lớn, là loại cá chủ yếu cho việc xuất khẩu nhưng những năm gần đây thị trường trong nước có nhu cầu chính vì vậy nhà mày chế biến thuỷ hải sản cũng sản xuất để phục vụ cho thị trường trong nước, với nhu cầu ngày càng tăng cao. Công Ty Chúng tôi đã phân phối và bán buôn sản phẩm cá Basa Phi Lê, Basa Fillet Tại thị trường Miền Bắc

    Địa Chỉ Bán Buôn Cá Basa Fillet Tại Miền Bắc, Miền Trung.

    Với nhiều đơn vị bán cá Tra, Cá Basa Fillet, Cá Basa Phi lê và Basa Cắt Khúc ở thị trường ngoài Bắc cũng như Miền trung thì khác hàng cần tìm hiểu mua những đơn vị cung cấp uy tín, với địa chỉ rõ ràng, và những cơ sở có kho lạnh, có chứng nhận an toàn thực phẩm, chính vì vậy khách hàng cần tìm đến địa chỉ uy tín rõ ràng, có nguồn gốc sản phẩm uy tín, trên Khu vực Hà Nội có địa chỉ bán buôn cá Basa Fillet và cá Basa Cắt Khúc Tại Số 6 Ngõ 529 Ngô Gia Tự, Đức Giang, Long Biên, Hà Nội

    WEBSITE: https://haisandonglanh.com Hotline: 0948334988 

    Tại đơn vị này cá Basa đầy đủ các loại với giá bán Tốt, Chuyên Cung Cấp Buôn với giá tốt nhất, Hỗ trợ các đại lý phát triển bán hàng online tốt nhất hiện nay.

     

    --- Bài cũ hơn ---

  • Ăn Hoài Không Chán Với Các Món Ăn Làm Từ Cá Basa Phi Lê
  • Giá Trị Dinh Dưỡng Của Cá Tra, Cá Basa – Cá Da Trơn Việt Nam
  • Đặc Điểm Sinh Học Và Mô Hình Nuôi Cá Basa Cho Năng Suất Cao
  • 【7/2021】Giá Cá Basa Và Cách Phân Biệt Cá Basa【Xem 233,046】
  • 【7/2021】Giá Cá Basa Tươi Ngon, Nơi Bán Cá Basa【Xem 828,135】

Những Lưu Ý Khi Ương Giống Cá Tra, Basa – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam

--- Bài mới hơn ---

  • Quy Trình Kỹ Thuật Sản Xuất Giống Cá Tra Và Cá Basa
  • Bán Buôn Cá Basa Cắt Khúc, Bán Sỉ Cá Basa Cắt Khúc Đông Lạnh Giá Rẻ
  • Cá Basa, Basa Cắt Khúc, Bán Cá Basa Cắt Khúc Tại Hà Nội.
  • Cá Ba Sa Trong Tiếng Tiếng Anh
  • Errors Made In Google Translate In The Indonesian To English Translations Of News Item Texts
  • Chuẩn bị ao ương

    Ao có diện tích to hay nhỏ tùy theo điều kiện của từng hộ, tuy nhiên diện tích ao ương càng lớn càng tốt, không nhỏ dưới 200 m2. Độ sâu nước phải từ 1,2 – 1,5 m. Nguồn nước cấp cho ao ương phải sạch và chủ động. Bờ ao phải được gia cố chắc chắn, không rò rỉ hay thấm nước.

    Tháo cạn ao, sên vét bùn từ vụ trước, dùng vôi với liều lượng 7 – 10 kg/100 m2 rải đều đáy ao và mái bờ ao.

    Tiến hành phơi ao, 1 – 2 ngày, những đáy ao bị ảnh hưởng bởi phèn thì không nên phơi đáy ao sẽ bị xì phèn. Sau khi phơi ao, tiến hành bón lót đáy cho ao bằng bột đậu tương và bột cá, mỗi loại 0,5 – 1 kg/100 m2 đáy ao.

    Vì ao ương cá bột nên cần phải lọc nước cấp vào ao bằng lưới lọc mắt dày, mực nước cấp từ 0,3 – 0,5 m. Đồng thời thả giống trứng nước (0,5 – 1 kg/100 m2 đáy ao) và trùng chỉ (2 kg/100 m2 đáy ao).

    Sau 1 ngày, cấp thêm từ 70 – 80 cm nước và thả cá bột, sau đó 2 ngày thì cấp đầy đủ nước.

    Nên kiểm tra lượng thức ăn sử dụng, chất lượng nước, tình hình sức khỏe và dịch bệnh của cá mỗi ngày – Ảnh: Lê Hoàng Vũ

    Chọn và thả cá ương

    Cá bột phải đều cỡ, bơi lội nhanh nhẹn, màu sắc cá tươi sáng, không dị tật hoặc mang mầm bệnh. Mật độ ương nuôi trong ao đất từ 250 – 400 con/m2 (cá tra), 50 – 100 con/m2 (cá basa).

     

    Cho ăn và chăm sóc

    Ngoài thức ăn tự nhiên sẵn có trong ao, cần bổ sung thêm các loại thức ăn khác ở giai đoạn đầu như: Bột đậu nành, lòng đỏ trứng gà, vịt. Cứ 10.000 cá bột thì dùng 20 lòng đỏ trứng và 200 gram bột đậu nành nấu chín, ngày cho ăn từ 4 – 5 lần.

    Sau 10 ngày, cá bắt đầu ăn móng (đớp khí), tăng thêm 50% lượng thức ăn và bổ sung thêm nguồn trứng nước, trùng chỉ. Thời điểm này có thể cho cá ăn dặm bằng cá tươi xay nhuyễn hoặc thức ăn chế biến.

    Sau tuần thứ 4 trở đi cho đến khi thu hoạch, thức ăn chủ yếu là thức ăn chế biến với thành phần là cám trộn bột cá (cá xay nhuyễn) nấu chín, khẩu phần ăn 5 – 7%. Hoặc thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm 30 – 50%, khẩu phần ăn 2 – 3%.

     

    Chú ý

    Khi cho ăn bằng thức ăn công nghiệp phải chọn kích cỡ thức ăn phù hợp với miệng cá. Cần bổ sung thêm vitamin, khoáng chất giúp cá khỏe mạnh, tăng sức đề kháng.

     

    Theo dõi hàng ngày

    Hàng ngày kiểm tra lượng thức ăn sử dụng, chất lượng nước, tình hình sức khỏe của cá. Đặc biệt là vấn đề dịch bệnh.

    Định kỳ luyện cá 1 lần/tuần, giúp cá quen dần với điều kiện chật hẹp, thiếu ôxy, nước đục… để cá thích nghi dần và làm giảm tỷ lệ hao hụt khi vận chuyển cá giống.

    --- Bài cũ hơn ---

  • Bán Buôn Cá Basa Phi Lê, Cá Basa Fillet Giá Buôn, Cung Cấp Cá Basa Fillet Đông Lạnh
  • Ăn Hoài Không Chán Với Các Món Ăn Làm Từ Cá Basa Phi Lê
  • Giá Trị Dinh Dưỡng Của Cá Tra, Cá Basa – Cá Da Trơn Việt Nam
  • Đặc Điểm Sinh Học Và Mô Hình Nuôi Cá Basa Cho Năng Suất Cao
  • 【7/2021】Giá Cá Basa Và Cách Phân Biệt Cá Basa【Xem 233,046】

【7/2021】Giá Cá Basa Tươi Ngon, Nơi Bán Cá Basa【Xem 829,125】

--- Bài mới hơn ---

【7/2021】Giá Cá Basa Và Cách Phân Biệt Cá Basa【Xem 233,046】

--- Bài mới hơn ---

Cá Basa Đông Lạnh Giá Sỉ

--- Bài mới hơn ---

【7/2021】Giá Cá Basa Và Cách Phân Biệt Cá Basa【Xem 233,541】

--- Bài mới hơn ---

Giá Cá Kèo Giống (28000

--- Bài mới hơn ---